Nhà thơ Thành Tôn tên thật là Lê Thành Tôn sinh ngày 9 Tháng Chín, 1943, tại xã Lộc Phước, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Thành Tôn sống tại quê nhà qua hết cấp tiểu học tại gia rồi vào trung học Trần Cao Vân, Tam Kỳ.
Năm 1960, Thành Tôn trở lại Hội An, theo học tại trường Trần Quý Cáp, trong hai niên khóa đệ tam và đệ nhị.
Năm 1962, Thành Tôn đến Đà Nẵng học năm đệ nhất tại trường Phan Châu Trinh. Sau khi đỗ tú tài toàn phần, vì hoàn cảnh gia đình nên vừa học Văn Khoa Huế vừa dạy giờ tại các trường tư thục Phan Thanh Giản, Thánh Vinh Sơn (một chi nhánh của trường trung học Sao Mai, tại An Hải). Cùng lúc này Thành Tôn ghi danh học hàm thụ môn triết tại Đại Học Đà Lạt.
Năm 1966, Thành Tôn thành hôn cùng chị Phan Thị Trinh là công chức Thuế Vụ Đà Nẵng.
Năm 1967, Thành Tôn thi hành lệnh động viên, nhập ngũ theo học khóa 25 trường Bộ Binh Thủ Đức.
Sau khi mãn khóa ra trường Thành Tôn được phân bổ về Tiểu Khu Quảng Tín, nơi đây được chọn làm chánh văn phòng (bí thư) cho hai đời Tỉnh Trưởng Quảng Tín (Quảng Nam). Sau đó anh được chuyển về Phòng Tâm Lý Chiến, giữ chức trưởng phòng cho đến cuối Tháng Ba, 1975.
Thành Tôn làm thơ khi còn đi học và đã có thơ đăng trên Bách Khoa, Văn Học, Văn, Vấn Đề, Khởi Hành, Nghệ Thuật, Sóng Văn, Quảng Đà. Năm 1969, tập thơ đầu tay “Thắp Tình” của ông ra đời.
Sau 30 Tháng Tư, 1975, ông bị đi cải tạo ở tận miền Bắc.
Năm 1997, Thành Tôn cùng gia đình được đi định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. và ông chọn cư ngụ tại Nam California.
Tác phẩm: Thắp Tình (Ngưỡng Cửa, 1969)
Tranh Lê Thiết Cương.
Kẻ đào ngũ
Buổi sáng soi gương và đội mũ Lòng đã hồ nghi khuôn mặt quen Dấu vết riêng nào trên nhân dạng Đã hằng hằng không tuổi tên
Chân bước ra đường luôn chạm mặt Những bàng hoàng trên nhan diện ai Sống nửa đời người chưa dám chắc Chân dung ta trung thực bao phần
Nên nhiều lúc tâm thần chấn động Một kẻ nào ẩn dạng, âm mưu Hắn tà giáo hay giòng chính thống Mặt đầm đầm đường nét hư vô
Những dội đập ngày đêm bấn loạn Trán phẳng phiu dậy sóng muộn phiền Thân chống bộ xương ròn hữu hạn Hồn mang ảo giác kẻ tham thiền
Ngực sống đã mơ hồ nhịp đập Tim trong tay kẻ lạ âm thầm Cõi nào phân chia miền tranh chấp Thân vô cùng ràn rụa mối thương tâm
Ta bắt gặp ngoài ta hình bóng Những đường quen nét thuộc nghi ngờ Kẻ đào ngũ lầm lì, ngập ngọng Nhàn nhạt trong cơ thể hồ đồ
Kẻ đào ngũ, chính ta trong hắn Ngực cơ hồ đập nhịp ai xa
Nhà thơ Đức Phổ
Nhà thơ Đức Phổ làm thơ khá lâu và nhiều. Kề từ khi sang định cư tại Hoa Kỳ vào năm 1996, thơ anh thường xuất hiện trên các tạp chí Văn của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, Văn Học của Nguyễn Mộng Giác
Khi lớn lên, tôi đã đọc và thích những truyện dài và thơ của Viên Linh. Nhất là những truyện dài đăng từng kỳ trên các nhật báo. Thuở ấy, ở một quận lỵ nhỏ miền Trung, tôi đọc có lúc được, lúc mất, vì báo lúc có, lúc không, nhưng nói chung, là thích.
(h. NV) Vi Lan Khai vừa là văn sĩ, thi sĩ, và họa sĩ. Văn sĩ hay họa sĩ anh cũng đều là "tài tử" theo nghĩa của anh em nhà văn chúng tôi đã cho nó hồi tiền chiến, là "không cầu lợi". Anh làm thơ, viết truyện dài, truyện ngắn, tùy bút, hồi ký,
Có thể nói Võ Phiến là nhà văn – như cây cổ thụ sum suê, giăng đầy bóng mát – trong nền văn chương Việt Nam trước 1975 và nền văn chương Việt Nam hải ngoại sau này. Tôi đọc truyện “Phía Bên Nhà Ông Ngà” của Võ Phiến đăng trên tạp chí Văn Học,
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.