Nhà thơ Từ Hoài Tấn
Kể từ giữa thập niên 1960, tiếng thơ Từ Hoài Tấn đã được nhiều người biết tới, qua những bài thơ tình trên các tạp chí, tuần báo văn chương như Văn, Nghệ Thuật, Trình Bày, Khởi Hành v.v… Nhưng bản chất khiêm nhường, kín đáo, trong đời thường rất ít người biết ông là nhà thơ (ngay cả những bạn thân tình). Với tôi, đây là một tâm-thế-sống, chọn lựa lui vào, ẩn sâu trong cõi riêng, rũ bỏ phồn tạp đời thường - - Phong cách trực diện với nín lặng, cô đơn thường thấy ở một số thi sĩ? Hay đó là hiệu ứng, “phản cung” những tra khảo, cay nghiệt của xã hội?
Không rõ, nhưng tôi trân trọng tính “lui vào, ẩn sâu cõi riêng” rất thi sĩ của ông.
Về tính khiêm cung của Từ Tấn Hoài, nhà thơ và cũng là họa sĩ Võ Công Liêm, hiện cư ngụ tại Canada, từng cho biết:
“Tôi thân quen với Từ Hoài Tấn hồi năm 1968. Sau tháng 4/75 thì chúng tôi được đời chọn cho mỗi người một cuộc sống khác nhau. Thuở ấy tôi chưa biết Từ Hoài Tấn là nhà thơ. Mặc dù anh đã có thơ đăng rải rác trên các tạp chí ở miền Nam. Chúng tôi trao đổi những chuyện thế sự qua tách cà phê hoặc nhiều khi họp mặt anh em. Tuyệt nhiên không nghe ai nói anh làm thơ. Tôi thường gọi tục danh anh mỗi khi xưng hô, đâu có biết, về sau này người bạn thân tôi là thi sĩ. Từ đó tôi thường hay đọc thơ anh và yêu thơ anh.
“Khi sống gần gũi những năm tháng sau nầy mới nhận ra được nhân cách sống của anh rõ nét hơn. Anh trầm lắng hơn trước đây hay đời biến đổi anh, tôi nghĩ như thế. Nhưng không, anh vẫn hài hòa như ngày nào, tuy nhiên vẫn không dấu được nỗi thầm kín trên gương mặt anh, không phải vì làm thơ mà anh trở nên thơ thẩn để cho ra ‘thi sĩ’. Cái bản chất anh là thế! Bởi vì xưa nay anh không tỏ một ‘dấu yêu’ nào là anh làm thơ và không chứng minh điều gì về thơ cả, anh ung dung trong tư thế đó. Tôi đem lòng khâm phục đức tính nhân hậu, khiêm tốn của một nhà thơ như anh…” (1)
(Gởi tặng Ph.1970)
“ ‘Canh khuya’ Từ Hoài Tấn chưa thấy đêm sâu, anh cho thêm chữ ‘khoắt’ để thành ngữ nầy gói trọn nỗi nhớ của anh. Cho nên anh mượn thiên nhiên để gởi gắm nỗi thầm kín đó, thơ Từ Hoài Tấn nặng hình dung từ và ẩn dụ vì thế ngâm lên cũng thấy được cái chất lãng mạn riêng của Từ tiên sinh.
“Hai sương một nắng nào đâu sá
Con bầy một lứa phận nữ nhi
Lều tranh cuối vườn nương nhà ngoại
Tháng chờ năm đợi buổi người đi
…
“Thương nhớ một đời ta là mạ
Nhưng hồn ta vất vưởng vẫn lệ nhoà”
(Mạ 1998)
“Đọc thơ Từ Hoài Tấn cho tôi một cảm giác lâng lâng, lạc vào thế giới huyền ảo của mộng mơ, lúc chơi vơi, lúc chìm đắm giữa một khung trời lập thể đầy sắc màu. Anh thả xuống những câu thơ nghe lạ tai, nhưng lại truyền cảm, cái hay của Từ Hoài Tấn là ở chỗ đó!
“Trong tập ‘Hành Tinh Phiêu Lạc’ trang đầu ‘Mở’ thay lời tựa, tác giả chỉ nói lời giản dị (16 chữ) nhưng trọn cả hành trình anh đi. Đó là cái chân tình của nhà thơ như anh, không phải anh tiết kiệm ngôn ngữ để nói về đứa con tinh thần mà anh đã cưu mang, chắt chiu. Có lẽ, Từ Hoài Tấn cho rằng có nói cũng không cùng; ai nghĩ sao thì nghĩ, có sứt môi méo miệng cũng là con anh, nhưng phải nghĩ một cách sâu xa, chính trong cái ‘khác đời’ đó là cái đẹp chân phương ‘Le laid peut etre beau,le joli jamais’ (P.Gauguin) Đúng! Từ Hoài Tấn chấp nhận cái đẹp một ít hơn cái gì trau chuốt cho đẹp. Vì thế mà tôi mến cái thủy chung của anh, thiết tưởng người đọc sẽ tìm gặp một cảm nhận như tôi.
“Quay về - một mối
Ra đi - muôn đường
Tìm em - nguồn cội
Mấy trời - tang thương.”
“Ngày dài lóc cóc ngoài hiên
Ngựa xe qua hết một miền còn lưa
Ngày ngồi nắng đổ chưa bưa
Như sầu ai thắp canh khuya chưa tàn.”
(Dáng thơ)
“Từ Hoài Tấn có những bài thơ tự do, thơ không vần (blank verse) nhưng đọc lên vẫn thấy như có âm hưởng của thơ vần đó là cái vi vu theo tiết nhịp vần xoay mà cuộc sống là biến động miên man theo mảnh lòng người hoài mong; tự do và thoát tục.
“Tôi đứng bên kia con đường
Một ngày đầu đông
Đợi người tình qúa khứ
Và mong đời nhẹ gót qua đây…”
(Huế-1968) (Nđd.)
Trên đây là chân dung thơ Từ Hoài Tấn, vẽ bằng chữ viết của Võ Công Liêm, qua thi phẩm đầu tay “Hành Tinh Phiêu Lạc” xuất bản năm 2003, bởi Nhà XB Thuận Hóa. Gần mười năm sau, năm 2012 Từ Hoài Tấn cho ra đời thi phẩm “Đi, Đứng và chạy… với thời gian” - - Như tôi biết, đó là thi phẩm mới nhất của ông, tính tới hôm nay.
“Ly thủy tinh trong vắt như nỗi buồn không soi đáyKhuôn mặt em hình quả mãng cầu gai
Ta nhảy múa với niềm vui cô độc
“Một kẻ lạ đi qua
Lời nguyền rủa
Như thanh kiếm chém vào mặt
“Một cô nàng đi qua
Tiếng cười vỡ
Ly thủy tinh ném xuống mặt đường
“Ngày đi qua
Thì thầm điệu ru tội lỗi
Đôi tình nhân hôn nhau cuối hẻm”
(Trích “Trong quán rượu”)
Hoặc:
“Ta thử khóc và cười mỗi ngàyHình như không ai nhìn thấy
Ngày đi và đêm xuống
Không có nghĩa gì với gã ăn mày mù lòa tự nhiên đi qua công viên
Hay ngồi lặng lẽ trên băng ghế
“Ngày đi và đêm xuống mối tình em mang rơi theo
Sao viên đá nặng vẫn đeo trên cổ.”
(Trích “Khúc Ban Chiều”).
Hoặc nữa:
“Trong một cố gắng không dừng lạiTôi hẹn hò em
Ám hiệu ngắn
9 giờ sáng – góc ngã tư – bờ tường tím – đội nón xanh
Tin đi
Người đi
Cuộc hẹn đi
Thời gian đi
“Và như thế
Trong một cố gắng không dừng lại
Tin mất
Người mất
Thời gian mất
“Chỉ còn lại
Tôi”.
(“Cuộc hẹn”)
Vẫn với Từ Hoài Tấn, chẳng những không “Đi, Đứng và chạy… với thời gian” mà ông còn cho thấy chia ly và bóng tối từ những tháng, năm khuất lấp vẫn tìm về trong thơ ông, tựa những game màu ám-dụ, đầy những liên tưởng sắc, buốt; mang theo những lát dao lạnh lùng đào-xới-những-vết-thương cũ, mới:
“Trả lại cho tình em vì không còn cách nào giữ lại emKhi em đã là người khác
Khi đôi mắt em là ngọn lửa khác
Khi lời tình yêu đã là tiếng vang vọng
Và khi ngày đã trở qua đêm”
(Trích “Chỗ không cùng”)
Hoặc:
“Vào những đêm khuya khi vầng trăng không cònSao Hôm dần biến mất
Anh tìm em trong bóng mây qua
Đôi mắt em ẩn chứa niềm bí mật
“Chúng tôi sống lặng lẽ mơ ước trong gió bụi của khốn khổ
Hàng đêm nhìn lên khoảng trời xanh
Thì thầm cầu nguyện và mong đợi phép lạ…”
(Trích “Những ngôi nhà thuê ở đường số 37”)
Tuy nhiên, có dễ mưa mới người bạn hoặc, nói một cách thậm xưng, là người tình thủy chung nhất của nhà thơ này.
“Tháng mười hai năm ấyMưa trở lại
Trong hẻm nhỏ có quán cà phê
Bà chủ bốn mươi tuổi
Em trở lại ngồi bên ta
Lời tình ái dài và đều như mưa ngoài cửa”
(Trích “Kỷ niệm”)
…
“Mùa mưa anh không thoát khỏi chiếc bóng em
Sự suy tư mòn gặm
(…)
“Buổi sáng theo cơn mưa đầu ngày
Một chút nhớ làn khói bay
(…)
“Em thiên nhiên đóa hoa mùa hạ
Những giọt mưa đầu mùa sóng sánh chiếc ly không
(…)
“Ai đi ngang che giấu mặt nõn nường
Mưa vang âm dòng suối”
(Trích “Khi yêu”)
…
“Buổi chiều mưa bất thường trái mùa
Khúc trầm bên chén trà
Người phụ nữ bước qua bên kia đường đón xe buýt
Dưới tàng cây che phủ vệ đường núp mưa những cô gái nhỏ xì xầm
Cảnh tượng chiều xám”
(Trích “Thơ cuối năm”)
…
“Những ngày này thường có cơn mưa đêm về sáng
Đều đều như lời kinh dịu dàng cám dỗ
Mùa mưa chưa qua sao”
(Trích “Lời cám dỗ dịu dàng”)
…
“Cơn mưa đi qua ánh sáng của ngày
Khúc hát ru chiều xẩm tối
Người thanh niên đứng trong hẻm cụt nói rằng
Môi hôn trên cây và nụ cười trên gió”
(Trích “Khi mùa mưa bắt đầu”)
…
“Buổi chiều về qua ngõ
Không nghe tiếng dương cầm
Vị mặn ở đầu lưỡi
Mưa và em”
(Trích “Là khi em đi”)
…
“Chiếc dù che góc quán nhỏ vệ đường ngồi hai người
Những chiếc ly không đầy nước
Ngày mưa qua
Đôi mắt ẩm ướt em nhìn ngắm giọt đều không tạnh…”
(trích “Thành phố mưa”)
Vân vân…
Ngay với những trang thơ không có một chữ “mưa” nào của Từ Hoài Tấn, nhưng ngữ-cảnh toàn bài, cũng cho tôi cảm được đâu đó, hơi hướm những cơn mưa chờ đợi.
_________
Chú thích.
(1) Trích Võ Công Liêm: “Dòng chảy không ngừng ở Từ Hoài Tấn”, Bạt, thi tập “Đi, đứng và, chạy… với thời gian”, Nhà XB Hội Nhà Văn, Saigon, 2012
*
11033
Tel: 714 982-6979
(con gái Trần Yên Hòa, gia đình H.O)
Trân Trọng Kính Mời
Quý độc giả và thân hữu (Orange
Thanks