TIỂU SỬ:
Tên thật: Nguyễn Đắc Ngân
Nơi sinh: Hải Dương
Năm sinh: 24/01/1951
Hiện sinh hoạt tại Sài Gòn.
TÁC PHẨM:
Thơ: NGẬM THẺ QUA SÔNG, 2013.
TRÍCH THƠ:
Đồn Sơn Yểm
đóng núi đồn xa đoàn pháo yểm
quanh năm ngủ miết với chân mây
nhìn sâu xuống vực nham hiểm đá
thù rừng cành trút lá mặc cây
vào thu rồi đó đèo xao xác
thung lũng vàng khô ẩn bóng nhà
suối chia mương nhỏ gie ống nứa
chuối mùa lốm đốm lá trổ hoa
suối len khe đá âm mưu chảy
đồn đóng binh ròng trận mạc xa
khói mỏng lên chiều thưa chiếc chim
đèo cao hút bóng mỏi mắt nhìn
gió mớn cho đông về thoáng lạnh
trông gần thương nhỏ dáng người em
âm thầm đêm tối gào giữ giặc
nhanh đạn chuyền tay chống tuyến đầu
gió núi rên oằn băng tiếng pháo
mây tan đường trái phá qua sâu
sơn yểm đỉnh cao muốn chống trời!
binh sĩ nhàn cư quẩn quanh thôi
cỏ không chừa lối đường xuống núi
rượu hết từ khuya vắng tiếng người
đêm lính trú buồn hâm bếp lửa
nhìn nhau kể chuyện vãn cười chơi
tay hơ than khói khô da thịt
thuốc đốt từng khoanh dấu mặt người
đêm gió u hồn thổi muôn phương
lũng hạ khuya tiếng sói tru buồn
dư rượu ấm chi lòng khách núi
thuốc từng khoanh cầm tiếng thở giữa hồn
chinh chiến đầu non chinh chiến trận
ì ùng âm pháo dội quanh năm
xóm cũ chừ em lo chạy loạn
cha già xưa nhúm mộ bỏ bên đồng
đèo sắp qua đông lạnh quá chừng
cây nản rừng chưa trổ lá non
đồn dăm chòi dột tin mưa gió
pháo mới chùi xong đợi tấn công
bạn tôi trẻ tuổi vừa cưới vợ
cười lệch đôi môi nói chuyện nhà
thoát sắp đông sang rồi đấy nhỉ
trông rừng giết lá mấy mùa qua
thu giữ mây cho ấm lòng người
pháo yểm đồn cao đứng lẻ loi
bao giờ vạch cỏ xuyên đường núi
lũng hạ thăm em rượu mềm môi
1972
Giai phẩm VĂN 16/8/1973
Ngậm Thẻ Qua Sông
thơm lửa hương khoai tiếng hát rừngven thôn vừa ghé buổi di quân
khói mẹ sau lều cơm chín tới
nước em chè lá đậm phèn sông
tôi đời trận mạc xa quê quán
buổi ghé nương em núp bóng nhà
em nhớ thương chồng đóng đồn ải xa
lâu tin vắng trông mòn đường xóm
tôi ở quá bên hông nhà gió sớm
đợi dùm em tin chinh chiến gởi về
đêm nay mưa em mất ngủ khuya
tôi lạnh gió tin địch về vẫn thức
làng em ở gió lào qua rất độc
ngày mưa mùa khuất núi mù sông
mẹ già mong một mụn cháu đầu lòng
em nhắn gởi bao lần tin vẫn biệt
rụng vườn em trăng sương ngày tháng chạp
tôi gác đêm như bóng người rình
tối nay đạn nổ nhẹ mạn sông
sương mỏng quá nhìn hoa ngàn con mắt
tôi giữa đêm nghe mình như thất lạc
thương xóm nhà biết nổ đạn vào đâu
đồng đội tôi ngủ mệt thôn sâu
ngại làm động mẹ ho vừa chợp mắt
tôi nương bóng nhà trăng che khuất
ngồi co mình cho bóng bớt riêng tôi
nhìn xa trăng định trốn sau đồi
sông tiếng vạc dặm buồn như tiếng cú
thức có khua mới nghe hồn bớt ngủ
mới hay trăng tháng chạp úa quanh đời
nghe em thở não mãi không thôi
em thở đó hay gió kêu mùa giá
nhà em ở miệt đông xóm hạ
bên triền sông không bến phải vắng thuyền
đầu trăng con nước rất vô duyên
lên mấp mé vườn em vai phơi áo
em rất nhỏ ngày trông vào gánh gạo
mẹ thì già vồn cải với nương rau
bước sau hiên vui mẹ dây trầu
mùa tốt lá xanh hồn tôi mới ghé
buổi mới đến cau cao vừa nhú bẹ
em thẹn thùa tôi tưởng thuở bình yên
tôi đâu hay em có nỗi hờn riêng
trông chinh chiến gọi hồn chồng theo gió
một tháng tròn ngỡ như ngày thưở nhỏ
em là em mẹ là mẹ xưa
tôi lêu nghêu lúc đi sớm về trưa
cơm nửa buổi giữa khuya kêu bụng đói
nhà thưa quạnh tôi gượng vui chẳng nổi
mẹ thẫn thờ em heo bóng trong sân
tôi trận mạc nhầu không kể đến thân
sương nhiều lắm trời không che nằm đất
em vẫn bảo tôi mái tranh không chật
tôi cười xòa xó xỉnh miết đâm quen
tròn tháng rồi đấy nhớ không em
hôm từ biệt quanh thôn nhà cửa khép
lúc quân đi chắc em không hề biết
đội tôi ngùi ngùi ngậm thẻ qua sông
còn tôi co ro lạnh mãi gió đông
một lần cuối nhìn nhà em đóng kín
tin chồng em chắc chưa về đến bến
như tin tôi mấy thuở gởi thăm nhà
cũng mấy năm rồi biền biệt phương xa
em còn nhớ một lần tôi ghé ở
thơm lửa hương khoai vùi bếp cũ
hồn em xa lắm cũng quanh đây.
Giai phẩm VĂN 12/10/1973
Quân Bộ Khúc
quân bộ qua thầm quân bộ qua
nón ngụy trang thép lạnh màu da
câm trăm miệng hến trừng gò ụ
súng dại dột nòng chực đạn ra
mặt thâm hiểm quá răng trắng nhỡn
biên giới xế chiều như cõi âm
cây che mù mịt vùng lãnh khí
có tiếng ai cười nghe xa xăm
đi qua rừng truông lá tủi thân
quân như ma lẩn bước thì thầm
áo quần trận tiệp mùi cây lá
đường xa đau rát gan bàn chân
lên đèo xuống dốc không sờn chí
cạy răng tìm không một tiếng cười
lúc mỏi tản quân cho ngồi nghỉ
khi buồn đưa điếu thuốc hút chơi
canh khuya ven núi ực tiếng cú
tay ghìm súng mắt mỏi đủ thứ
trông xa thấy thoáng tưởng khai hỏa
cây đen lù gió lay bay lứ dứ
đêm rừng lạnh muốn ho xé cổ
ráng chịu qua giữ mục tiêu quân
cầu sương điếm cỏ đau lòng khách
súng thép giá bên mình quanh năm
trinh sát cơ bay rù trên cao
nghe ra nhớ người xa biết bao
ngắt một cọng cỏ xanh dưới gót
ngậm trong miệng vơ vẩn làm sao
tinh sương thu quân gọi lên đường
rừng âm u bít lối cỏ mòn
vạch cây khoét bụi theo đường nhỏ
quân đi rừng cuộn mãng xà cuồn
qua suối nước nguồn cao tới ngực
súng dong cao địch tưởng ta hàng
quần áo ướt dầm không khí ẩm
da nhờn rít thấm gió mùa sang
đi mãi quanh năm với núi rừng
ngoái nhìn trùng điệp núi phương đông
ngước mặt cây mù bưng bóng tối
hai bên bờ bụi xót xa lòng
ba ngày lương khô ăn không chán
khát uống suối nguồn trông cá vởn
thất chí theo người xưa gõ gươm
ca rằng hề cơm không có canh
lầm lũi miết cũng tới xóm thôn
chạm dăm trận trước chưa lại hồn
quân vòng bố trí quanh bờ ấp
toán chận bờ sông toán đầu truông
một cánh nhỏ quân phục múi cầu
hai cánh khác xẻ đôi thọc sâu
cẩn thận có khi là công cốc
thôn toàn con trẻ với mẹ già
răn rúm quả xanh dăm trái khế
ít cơm rơi nhao nhác lũ gà
ủng oẳng bên hiên con chó ốm
thôn ổ này là quê nhà ta!
ngủ chưa chợp mắt quân di chuyển
nón sắt nặng đầu ba lô mỏi lưng
trông quanh đen đúa không rõ mặt
lắng nghe va động đoán chừng chừng
lắng nghe mới rõ gần nỗi chết
biết có gì không dưới bước chân
thê nhi bao nỗi lòng tan tác
em ở xa mà ta ở gần
ngàn năm biên ải giữ oan hồn
lá rừng xô gió núi sông xương
chết phơi khí tiết vô danh sĩ
chết đắng cay ma núi ngậm hờn
biên ải ngàn năm danh tiết hão
mộng sông hồ đâu phải ở đây
ta cũng chẳng vô vi lão tử
sao suối cùng đèo nối ngàn mây
biên ải ngàn năm gió u hoài
quân rờn gió núi da mọc gai
phải gió mang muôn linh hồn cũ
về đây đợi đón khách phương ngoài
giật minh không chỉ nghe tiếng đạn
dầm dãi ngày mưa lũ năng dầu
chiều bên núi dốc chưa hỏi đá
đã nghe cú hực gợi đêm thâu
thuở tuổi hai mươi xanh tóc người
bên rừng ngả nón ngỡ thảnh thơi
súng lơi báng nhỏ thả lời hát
trăng mùa xưa ơi em của tôi
1973
ngụy âm
tỉnh sương đèn phố ngủ dài
mon men nắng đến đợi khai khẩn ngày
đêm về chẳng kịp chia tay
chuông rung tầng thượng vọng lây phố phường
cửa khâu đêm vẫn chưa buông
muợn hôm ngủ đậu hồn vuông nếp phòng
nghe ngày hạ phố thốt âm
đậy chăn tôi vẫn tưởng lầm chiêm bao
đông còn lạnh với lên cao
gió chen với nắng xôn xao cửa ngoài
xa kèn huyễn vọng bên tai
bến sâu giờ chắc phơi đầy biệt ly
hối ngày xe đuổi nhau đi
quán chôn tiếng khách bàn ghi chỗ ngồi
ngại trưa mây níu nắng rồi
thắp phòng mở cửa tôi mời ngày sang
gặp mây nhà phố xếp buồn
kèn xa dại tiếng trổi luôn mấy vầng
vá đường bóng ngủ chết câm
quen xưa mây ghé làm thân núi mờ
người về từ mấy nghìn xưa
tiếng còn hao vọng giữa mùa thịnh âm
nhớ xa xe thống nổi kèn
tiếng vừa điệp giữa dặm nghìn cát lau.
Giai phẩm VĂN 3/1975
thuyền cũ
đi sông, thuyền chở đầy khoang gió
ngược nhé, nước triều con sóng nhỏ
qua dòng, thân lay như bóng cỏ
ngước nhìn, mây trôi bên nước lạnh:
mới hỏi, thân mười năm về chưa
em chờ, tóc có pha màu của:
thời gian, rượu uống mộng say mứa
buồn chết, bình xưa cạn lật ngửa
tri âm, lạnh như vầng trăng rũ
qua sông, chiều hối một ngày đưa
rượu hồ, ta uống mấy cho đủ
tay hồ, tay không dù vẫn có
lòng hồ, nặng bóng ai năm cũ
em hồ, bay chiếc chim ly biệt
ngày tháng, hồ bay như cơn mưa
cuối chiều, sao hôm chênh chếch ló
chiều rồi, bờ kia ai gọi đó
lỡ sông, mười năm lòng cứ lỡ
thì đi, thuyền hỡi cho kịp vận
mười năm vẫn nhớ lời ca xưa
gởi sông, thôi nhé mắt còn ngó
nhà xưa, mười năm xa khép cửa
tri âm, tri kỷ hồ khách khứa
tân chén, càn khôn say ngơ ngất
trần gian mọi chuyện hồ như đùa.
Tập san THỜI TẬP 25/6/1974
một chân giày
kẻng đóng chiều hôm vào với tối
săn đón đêm khuya quán thắp đèn
đất với người tranh một cuộc đỏ đen
vai anh gánh một bóng tà sắp khuất
bên hướng Tây mặt trời thua mặt đất
trăng theo về thả nổi gọi làm vui
mây như bông pha máu sót cuối trời
đường qua núi nước tật nguyền vỡ nát
quán ngậm gió đèn len trong tiếng nhạc
bia sủi tăm lúc lúc đói uống bào gan
anh một mình chết khuất giữa điệu đàn
đời quán vắng cô em run ngực thở
đời vắng lẻ đứng bên đời khốn gió
lạnh vành ly môi có uống về hồn
áo vàng em có đẫm nổi hoàng hôn
đã chếnh choáng nhìn nhau hòa ra bóng
đấy một lúc cũng làm thành một mộng
giữa mắt người em có thấy mười năm
đêm tang thương em dụi mặt khóc thầm
lúc khuya đến hồn chiêm bao vấy máu
nhìn không thấy nên đi nào có thấu
chưa ba mươi mang mỏi một phận người
lòng thì như sông núi đứng ngậm ngùi
ngày chẳng đốt vẫn bay thành mảnh khói
mắt ngậm tiếng nên nhìn ra lời gọi
giả tỉnh say anh ngại nhớ đất nhà
anh mời chiếc hồn đi với đường xa
còn chiếc bóng mặc đầy hình gươm giáo
anh múa rối như vai hề hát dạo
mượn hình người để dấu vết làm tin
tay ôm gươm nhưng hồn chẳng bạo quyền
buổi bên núi nhìn lau ngờ tóc mẹ
trông mấy sông vời khói tưởng chị xa
ai có vai mà chẳng có quê nhà
đợi mãi lòng anh thành mãi quốc
gươm xanh nín dưới áo vai hề
trông một hồi mắt thắp giửa trùng khuya
mặt bôi tượng khiến đời lầm vô giác
anh hùng nào không qua thời đốn mạt
hồn căm sương nên buốt lạnh bên đời
thân thì đơn như mảnh lá xuông rơi
rượu nửa cuộc em tay chùng tay nắm
theo đường lớn chân vô cùng sóng sánh
mười mấy năm tha bạc một chân giày
ngày thả bay như mảnh khói trên tay
ngày qua ngày qua, với những ngày qua
nhìn tháng năm như bóng vọng đuổi về
thôi thân thể lầm vai mang bản kịch
gươm biểu tượng sẽ còn xanh tinh khiết.
Tâp san THỜI TẬP 8/4/1974
Nguyễn Thanh Châu
(AZ, sưu tầm và gởi)
*11033
Acacia Parkway
Garden Grove, CA 92840Tel: 714 982-6979
Fax : 714 - 982-9307
Trân Trọng Kính Mời
Quý độc giả và thân hữu (Orange
County ) đến mua thuốc ủng hộThanks