Đầu tiên, người viết muốn nêu rõ nét tính tường thuật trong thơ Đạm Thạch. Đặc thù của cảnh vật, đặc thù của phương ngữ, hiện diện rất nhiều trong thơ Đạm Thạch, đôi khi quá đặc thù làm người xa với địa phương mình không rõ cảnh vật ra làm sao, từ ngữ riêng đó nghĩa là gì. Thậm chí có người không mường tượng những hàng so đũa thanh nhã với hoa trắng lắc lư rất đẹp, vì họ chỉ thường thấy hoa so đũa bán ngoài chợ (hoa so đũa trắng, có loài màu đỏ, thường được dùng để nấu canh chua, hoặc ăn trong món “lẩu” ở Nam Bộ.) Thật ra so đũa là thực vật nhập từ xứ Mã Lai. Những điều quá đặc thù về cảnh vật và phương ngữ riêng ở Nam Bộ thấy rải rác trong thơ Đạm Thạch (chẳng hạn: mừng quýnh, mủ mĩ, tròn ủm, lúc vầy lúc khác, gọn lòn, tươi rói, muỗng vùa, phủi cẳng lên giường, bện khít rim, neo ụ lại, bất kể quân thần, đau thấu ông bà ông vải, lón lén, nghèo mạt rệp...) Dồi dào tính tường thuật tình quê đậm nét địa phương, có khi làm ta thấy tác giả không ngần ngại dùng phương ngữ (như nở tè le); có khi làm ta thích thú với những cách ví von rất thơ tự coi mình như con cá lìm kìm khiêm tốn; có khi khiến ta lưu tâm những phát biểu ý kiến về “thế đứng” của con cá giữa hai dòng mặn ngọt:
... Tuổi thơ tôi mùa mưa thăm nấm mối
Trong lùm tre, bụi khóm, bờ nương
Thấy đất nứt lấy tàu dừa đậy lại
Phổi nấm tàn, nấm bỏ nở tè le.
(Trong bài: Bến Tre Tuổi Thơ – Một Đời Tôi Yêu Đó)
... Tôi như con cá lìm kìm trong mương cạn
Sống quẩn quanh ở kinh rạch quê nhà
Thả trôi nổi theo nước ròng nước lớn
Đâu có bao giờ trước vọng đi xa.
(Trong bài: Con Cá Lưu Vong)
... Con cá duồn vẫn tra dòng sông ngọt nước
Cá chìa vôi thích biển mặn vẫy vùng
Cá Cháy thịt ngon và trái ngược
Sống một đời giữa mặn-ngọt riêng-chung
... Ôi! Con cá sống giữa dòng gạch nối
Khác con người lặn ngụp cả hai nơi...
(Trong bài: Con Cá Cháy)
Đến phần “ngôn ngữ tường thuật phát lộ chất siêu hình” thì vấn đề có lẽ ở ngoài chủ tâm của tác giả. Điều này vẫn thường có, không ở người sáng tác mà ở nội tại chính trong ngôn ngữ. Ví dụ khi ta đọc tới “chín mươi chín ngọn Hồng Lĩnh” thì ngôn ngữ ấy nhắc nhở đến nhân vật văn chương kỳ tài; đọc tới “đầm lầy U Minh Hạ" khiến ta mường tượng rừng tràm mịt mịt một vùng bao la, đọc tới “ngàn cánh chim trên trời Việt Bắc” làm ta nghĩ đến đồi núi chập chùng của một dải biên cương mà một nhạc sĩ lớn đã hứng cảm. Cũng vậy, “con cá duồn Biển Hồ, cá chìa vôi Vàm Láng Gò Công" trong thơ Đạm Thạch gợi cả một dòng trường giang trên con đường di chuyển của muôn loài cá tôm từ Biển Hồ ở Kampuchia ra tới cửa sông Cửu Long Giang. Nó nhắc việc cần giữ môi trường làm nguồn sống cho bao nhiêu triệu con người. Nó nhắc đến viễn tượng tranh chấp quốc tế của dòng nước sinh tử trong tương lai.
Mười mấy đập nước ở thượng nguồn Mekong, những kế hoạch khổng lồ chuyển nước Mekong từ Lào qua Thái Lan, đại công trình thủy lộ từ Miến Điện nối vào Mekong để tới Vân Nam, tất cả làm cho chúng ta lo về sinh thái, lo về những toan tính lớn có ảnh hưởng lợi hay hại cho toàn vùng. Có vẻ lớn lao, ta nghĩ đến việc tạo dựng hòa bình vĩnh viễn giữa Việt Nam và Kampuchia với kế hoạch hai quốc gia cùng nhau hợp tác làm hồ chứa nước khổng lồ tại Kontum để đưa nước vào Mekong trong mùa hạn. (Hồ chứa nước có thể thực hiện, vì là chỗ hợp lưu sông Poko Việt Nam và sông Xê Xan của Kampuchia chảy vào Mekong).
Biển Hồ và Vàm Láng Gò Công, địa danh khiến ta nghĩ xa xôi, vì ngôn ngữ gợi về một hành trình xa xôi. Cũng vậy, sinh vật từng hiện diện rồi mất tích gợi cho ta những ý nghĩ xa xôi khác, xa xôi về lẽ sinh diệt mất còn của các tạo vật trong vũ trụ. Có loài một thời hiện diện nay diệt vong, bằng chứng sự có mặt của chúng là những hóa thạch xưa hàng chục triệu năm. Ta nhớ đến cá voi Moby Dick của nhà văn Mỹ Herman Melville, cá voi trắng ngoi lên trong những đêm sương mù và đàn chim linh hộ vệ bay phía trên. Cá voi trắng là tạo vật thiêng liêng của Tạo Hóa, vậy mà một thuyền trưởng dám thách đố dong thuyền khắp đại dương đi tìm để trả thù, vì Moby Dick từng làm ông cụt chân trong một chuyến săn cá voi. Con cá Cháy chỉ ngoi ăn sương khi đêm về sáng và chỉ có ở Trà Ôn mà thôi, đây là một huyền-ảo-có-thực như huyền ảo “cá bông lau” khổng lồ chỉ có ở Vàm Nao và một khúc sông sâu thuộc địa phận Thái Lan; hoặc như huyền ảo loài “cá heo Mekong” chỉ lên xuống một vùng gần Thác Khone thuộc địa phận Kampuchia:
... Con cá duồn từ Biển Hồ ngon thế nào Bến Tre đã biết
Hay cá chìa vôi Vàm Láng Gò Công
Tôi vẫn nhắc hoài con cá Cháy
Sống giữa dòng nước lợ miệt Trà Ôn
(Con cá thích trầm sâu giữa dòng mặn-ngọt
Ngoi ăn sương giữa đêm về sáng)
(Trong bài: Con cá Cháy)
Từ ngữ “vàm sông” ở vùng ven sông Cửu Long được quen dùng trong tiếng nói dân gian, ở đâu cũng nghe nói tới vàm sông; nó chứng tỏ sự trù phú của vô vàn sông rạch nhỏ chảy vào sông cái Cửu Long Giang; nó gợi trong ta tiếng róc rách ngàn năm của thủy triều lên xuống, của nước ròng nước lớn. Ta không rõ đây là ngôn ngữ quy ước chung cho cả ba miền Nam Trung Bắc Việt Nam chỉ về chỗ sông rạch chảy vào sông lớn, hay đây là phương ngữ Miền Nam. Nhưng dù là phương ngữ hay không, "vàm sông” gợi lên tính chất siêu hình của chu kỳ sông nước, của thiên nhiên vận chuyển tuần hoàn:
... Nhanh nhanh lên còn ở đầu vàm
Con sông rộng còn nhìn triều sóng vỗ
Kẻo rồi đây luồng kinh rạch xa xăm
Nhanh nhanh lên khi còn ngoài sống cái...
(Trong bài: Nhanh Nhanh Lên)
Ta đã vừa hứng thú với cách mô tả so sánh đặc biệt (như trường hợp con cá kìm) và từ ngữ dù địa phương vẫn gợi tính siêu hình về chu kỳ và hành trình xa xăm, nhưng làm khi ta thấy tác giả tường thuật hơi nhiều và dùng phương ngữ khắp các bài thơ (nhất là những bài thơ nhắc nhở thú vui thời niên thiếu nơi quê hương), bây giờ ta sẽ tìm thấy ngôn ngữ văn chương quy ước rất trang nhã của Đạm Thạch, đồng thời với ngôn ngữ trần trụi của thơ hiện thực rất đời thường không riêng gì ở Nam Bộ. Chính vì tận dụng phương ngữ, chính vì quá nhiều tính tường thuật đặc sản quê mình, mà có thể ta không đọc hết để bắt gặp tính văn chương quy ước rất chung cho cả ba miền trong thơ, không có chất gì riêng Nam Bộ.
Qua thơ Đạm Thạch, ta không khỏi liên tưởng (không phải so sánh) đến thơ Nguyễn Du trong đoạn Hoạn Thư tự nhủ về những khôn khéo cần thi thố để đối phó với liên hệ tình cảm giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều:
... Trốc mồ dĩ vãng một thời
Chính anh tẩn liệm, chôn vùi, lãng quên
Làm chi sóng gió bấp bênh
Thuyền không bến đậu cuối ghềnh, đầu song
Làm chi mặt lạnh như đồng
Ngày cơm nước nhạt, tối phòng quạnh hiu...
(Trong bài: Chi Bằng Nếu Em Đừng Nói)
Văn chương quy ước trang nhã, ta đã thấy trong thơ Đạm Thạch. Và văn chương quy ước hiện thực ta cũng thấy trong thơ anh. Sở dĩ ta thêm từ ngữ quy ước, vì những câu thơ trần trụi dễ làm ta nghĩ đó là thơ “nói thẳng” kiểu Nam Bộ, mà thật ra tính chất trần trụi trích trong thơ dưới đây không dành riêng cho miền nào. Từ ngữ diễn tả những điều xấu trong xã hội, những cái thật trong đời sống, những cần thiết cho nhu cầu:
... Thư cho vợ đã giấu thầm giọt lệ
Quà thăm nuôi em chớ bận tâm
Tiện thì gửi mắm ruốc
Nhớ xào thiệt mặn
(Trong bài: Dẫu Biết Rằng)
... Mỗi ngày nhìn sông Cái Khế
Rác rưởi, lời chửi, trộn vào nhau
(Trong bài: Trên Bến Củi)
... Hồi ấy tiếng gõ mì khuya khoắt
Dựng tôi lên trong ngõ hẻm tồi tàn
Hồi ấy giọng rao chè lạnh buốt
Đọng trong tôi bao số phận nghèo nàn
(Trong bài: Tín Hiệu Đổi Thay)
... Xa rồi tuổi hụp kinh mương
Chỉ còn ngụp lặn với bươn chải đời
(Trong bài: Câu Thơ Còn Cố Mỉm Cười)
... Thương em ngồi khóc lục bình
Tôi còn trôi giạt với nghìn nỗi đau
(Trong bài: Dỗ Tình)
... Chiều cuối năm chiều thấp ngang vai
Chiếc lá đuối đường bay nỗi nhớ
(Trong bài: Chiều Cuối Năm)
Cái giỏ đựng mận
Dòng sông đựng cá
Bầu trời đụng chim
Mẹ đựng con
... Duy chỉ có anh và em
Không là gì
Mà đựng lẫn nhau
Anh đựng em
Em đựng anh
Đựng cả hình hài và nỗi nhớ.
(TVN - Tháng 10 năm 2009)
11033
Tel: 714 982-6979
Trân Trọng Kính Mời
Quý độc giả và thân hữu (Orange
Thanks