Chưa bao giờ câu ca dao ấy lại đúng hơn thế và cho ta lời khuyên đúng đắn, thiết thực nhất trong mùa đại dịch này. Cho dù tháng Giêng có “là tháng ăn chơi”, như một câu ca dao khác, thì cũng chỉ nên “ăn” và “chơi” ở trong nhà hoặc “ta dại ta tìm nơi vắng vẻ” hơn là du Xuân đến những chốn lao xao hội hè, đình đám.
Một trong những “chốn vắng” ấy là dạo chơi trên cánh đồng thơ mùa xuân để hái về những bông hoa tươi thắm là những bài thơ, câu thơ tháng Giêng khoe sắc trong nắng xuân.
Thơ hay, một đôi câu cũng hay. Những câu thơ trích dẫn trong bài này chỉ là tiện tay gặp đâu ghi xuống đó, không phân biệt, phân loại thơ cũ thơ mới, thơ già thơ trẻ, thơ ngoài Bắc thơ trong Nam, thơ ngoài nước thơ trong nước. Một bài thơ, câu thơ hay không bao giờ cũ.
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
(“Vội vàng”, Xuân Diệu)
Câu thơ cũ nhưng vẫn cứ mới như mùa xuân chẳng bao giờ cũ, chẳng bao giờ già. “Tháng Giêng ngon”, không mới sao? Chẳng biết chơi Xuân, ăn Tết ngon, dở thế nào nhưng cứ nghe “tháng Giêng ngon” là đủ thấy ngon. Ngon đến độ “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Nói “Tháng Giêng ngon như một cặp… bánh chưng” nghe cũng hay vậy nhưng vẫn không hay, không ngon bằng “một cặp môi gần”. Câu thơ không chỉ mới vào thời kỳ gọi là “phong trào thơ mới” ấy mà mãi đến nay nhiều người làm thơ vẫn chuộng cách ví von như thế.
Thuở ấy mây non với gió mềm Nắng vừa ấm để mọng môi em Nụ hôn mừng tuổi ngon như Tết Anh bảo em rằng mới tháng Giêng
(“Niên thiếu”, Duyên Anh)
Tết ngon, tháng Giêng ngon, mùa xuân cũng ngon ngon. Đến cả điếu thuốc lá của ngày đầu một năm cũng ngon nữa khi ta nghe Nguyên Sa kể chuyện tháng Giêng bằng giọng thân mật.
Tháng Giêng và anh rủ nhau châm điếu thuốc Điếu thuốc đầu năm và điếu thuốc đầu ngày
(“Tháng Giêng và anh”, Nguyên Sa)
Tháng Giêng không chỉ thật ngon mà còn thật hiền. Tháng Giêng không chỉ ướt như mắt, hồng như môi mà còn trắng như cúc, biếc như lá…
Tháng Giêng hiền như cỏ và tóc mềm như mây Tóc bay qua bến lạ Sông thương ai, sông đầy
Tháng Giêng biếc như lá và tình ấm như tay Tình rẽ sang lối nọ Vai nhớ ai, vai gầy
(“Tháng Giêng hát”, Mường Mán)
Thế nhưng, vẫn có những tháng Giêng không “hiền như cỏ”, vẫn có những mùa xuân không là “xuân hiền”. Tháng Giêng theo chân người lính về giữa lòng cố đô hoang tàn một thời nào binh lửa.
Tháng Giêng xuôi quân ra Huế Cố đô hoang vu điêu tàn Bãi học chiều em vắng bóng Tóc thề đã quấn khăn tang
(“Hành trình Thủy Quân Lục Chiến”, Phạm Văn Bình)
Cho dù Huế có đổi thay qua bao mùa tang thương dâu bể, Huế của thôn Vỹ Dạ, bến Văn Lâu, của cầu Tràng Tiền, dốc Nam Giao vẫn đẹp mãi, thơ mãi trong những bài thơ tình tháng Giêng gửi về chốn cũ, một nơi chốn người ta đã sống đã yêu, đã hạnh phúc đã khổ đau.
Gió ướt còn bay giữa tháng Giêng Phố Huế còn mây áo lụa ai mềm Mưa khói còn xanh một trời thôn Vỹ Huế còn trong lòng một người yêu em
(“Chốn cũ”, Vũ Hữu Định)
Nhiều lắm, những lời hẹn thề với Huế mộng mơ, với dòng sông Hương lững lờ êm đềm xuôi chảy.
Tháng Giêng còn mộng mơ
Sông Hương còn gương lược
Tôi hẹn về chải tóc
Cho người tình năm xưa
(“Món nợ mùa xuân”, Trần Dzạ Lữ)
Huế tháng Giêng là vậy, Sài Gòn tháng Giêng cũng đâu có khác, cũng là những nỗi niềm vời vợi gửi vào bài thơ tình, cũng là những cơn mưa chiều về ngang thành phố và nỗi nhớ dạt dào như “hàng cây nhớ gió đứng bên đường”.
Tháng Giêng Sài Gòn anh làm thơ yêu em
Buổi chiều mù mưa bay xa trời thành phố
Tháng Giêng Sài Gòn – nỗi lòng anh thế đó
Rất nồng nàn khi nghĩ đến em yêu
Tháng Giêng Sài Gòn tha thiết biết bao nhiêu
Như anh đến cùng em, cầm tay mà chẳng nói
Như lúc anh xa em, nỗi sầu lên vòi vọi
Như hàng cây nhớ gió đứng bên đường
(“Tháng Giêng Sài Gòn anh làm thơ yêu em”, Kim Tuấn)
Sài Gòn tháng Giêng đầy nắng và gió. Sài Gòn của những đường phố quen tên đầy ắp những kỷ niệm và của những câu thơ đượm hương vị Tết như là những hoài niệm đẹp về một thời để yêu và một thời để bâng khuâng tiếc nhớ.
Rét lợt mùa Giêng Sài Gòn nắng Gió nồng Bà Chiểu đậm cây xanh Nhang khói Lăng Ông chừng gợi nhắn Mạch đời nghĩa đất những nghìn năm…
Mùa Giêng Nguyên đán Sài Gòn gió Mát dịu đường trưa lá ngủ quên Muốn gửi theo người không hẹn trước Chút lòng hương Tết gió Hàng Xanh
(“Mùa Giêng ở Sài Gòn”, Nguyễn Bạch Dương)
Mùa Giêng ở Đà Lạt thì sao? Đà Lạt mùa xuân như cô gái xuân thì, xinh tươi và mơ mộng. Đà Lạt mùa xuân về trên những đóa quỳ vàng rực phủ kín lưng đồi và trên những lối đi quen.
Đà Lạt chiều xuống thấp bóng ai bên hàng cây Chắc nỗi buồn đứng nấp cho trời chiều đầy mây…
Đà Lạt em không đến e tháng Giêng bớt hồng Hoa quỳ không còn nở giữa vô cùng mênh mông
(“Tháng Giêng hoa quỳ nở”, Huỳnh Hữu Võ)
Lại còn những thành phố nào nữa khi tháng Giêng về trên những con đường ngập nắng dẫn đến trường và áo trắng như từng đàn bướm trắng nhẹ bay trong làn gió xuân.
Phan Thiết ra Giêng đường phượng nắng Hoa còn sợ gió trốn môi em Thị xã xưa, xưa tràn áo trắng Mái lầu Tháp Nước đỏ dần lên
Phan Thiết ra Giêng em ôm cặp Tụm ba tụm bảy nụ cười xuân Em thầm nghiêng nón trên cầu sắt Hỏi sông Mường Mán những bâng khuâng
(“Phan Thiết ra Giêng”, Nguyễn Như Mây)
Hà Nội mùa xuân về trên những cành đào nở sớm. Chiến tranh đã đi qua, chàng trai trẻ xa rời Hà Nội năm xưa cũng đã đi hết một thời tuổi trẻ. Người tìm về những đường xưa lối cũ. Những con đường nay đã khác, những hàng cây nay đã lớn, biết lòng ai có đổi thay?...
Ngã năm rộng, cỏ ven hồ xanh mướt Năm nay đào nở sớm, tháng Giêng sang Tháng Giêng bỡ ngỡ búp bàng non Nhiều trẻ con và nhiều chim sẻ
Những con đường đông vui như tuổi trẻ Như cuộc đời, bao kỷ niệm đi qua Anh trở về sau những tháng năm xa Cây đã lớn, lòng ta nhiều đổi khác
(“Những con đường tháng Giêng”, Xuân Quỳnh)
Người về hay chưa? Có thực người đã trở về như tiếng chân ai, tiếng giầy nào quen thuộc chạm những bậc thềm cửa hay chỉ là tiếng động mơ hồ của tiếng lá rơi bên thềm nhà vắng. Người đi vẫn biệt tăm, người ở lại cố níu chân tháng Giêng “không cho Rằm trôi qua” để kịp đón bước chân người về trong nỗi khắc khoải đợi chờ.
Rằm tháng Giêng rồi đấy
anh đã về hay chưa?
Tiếng giầy ai giẫm nhẹ
bực thềm buổi xuân trưa
Tháng Giêng thơm trong tóc
hồn em cài mảnh Rằm
Anh có về hái lộc
tháng Giêng đang gọi thầm
Tháng Giêng ngày giòn lắm
em níu chặt cành hoa
Anh về đi em đợi
không cho Rằm trôi qua
(“Tháng Giêng thơm trong tóc”, Trần Mộng Tú)
Những hạnh phúc đầu xuân hay những mùa xuân cách chia vẫn là nguồn nhạc hứng, thi hứng để người nhạc sĩ và chàng thi sĩ viết thành câu hát, lời thơ trong những bài thơ tình muôn thuở và những bản tình ca ngọt ngào.
Thời gian nói điều gì mà mùa xuân trói buộc Câu thơ đi nửa bước Nỗi buồn dài mười năm
Đời gọi thức trăng rằm Em về vui bếp nhỏ Gió qua mùa thương khó Tháng Giêng tìm môi ai
(“Tình ca mùa xuân”, Tần Hoài Dạ Vũ)
Nguồn thi hứng tháng Giêng ấy cũng róc rách chảy xuôi về dòng thơ lục bát. Tình không là tình xanh vì nỗi phụ phàng. Tình không là tình bền vì những đổi thay. Tháng Giêng ngắn, nỗi buồn thì dài dằng dặc.
Tháng Giêng đang ở quê nhà và em đang với mù sa phố chiều Đã vàng bóng áo cô liêu chắc chi giữ được ít nhiều ngày xưa?
Tôi đi cuối buổi mong chờ viết không xong nổi bài thơ bạc tình Quá nhiều những tháng Giêng xanh đã như phấn bụi đời mình gió bay
Đổi thay, đã từng đổi thay Tháng Giêng ngắn, nỗi buồn dài phải không? (“Gửi tháng Giêng”, Hoàng Lộc)
Tháng Giêng ngày mỏng, mưa cũng mỏng. Cơn mưa phùn lất phất tháng Giêng đánh thức những nhớ thương dịu dàng.
Tháng Giêng mưa ngoài phố Mưa như là sương thôi Những bóng cây dáng khói như mộng du bên trời
Tháng Giêng ngày mỏng quá Nỗi buồn nghe cũ rồi mà bên kia tờ lịch nỗi niềm mưa xót rơi
(“Mưa tháng Giêng”, Nguyễn Việt Chiến)
Tháng Giêng mưa phùn không đủ làm ướt áo. Mưa giăng, gió nhẹ chỉ đủ vừa nhớ thương. Nhìn mưa rơi phương này mà nhớ mưa phương nào nơi chốn xa quê nhà.
Bây giờ ra Giêng rồi em Mà sao mưa chưa ướt áo Em ngồi thu mình áo não Sầu lên tím ngát chân thềm
Ra Giêng có mưa phùn nhẹ Mùa này quê mình cũng mưa Cây dâu đất còn sai trái? Em về bên liếp rào thưa…
Ra Giêng em đi xuống phố Anh nghe gió mát qua lòng
(“Ra Giêng”, Trần Yên Hòa)
thềm nhà
Quê hương là những thành phố, những làng quê, là mảnh vườn thửa ruộng, luống cày liếp rau, là bụi chuối buồng cau, bờ tre khóm trúc, là hoa gạo đỏ nở ven sông. Quê hương là chốn người ta luôn muốn tìm về mỗi mùa xuân tha hương vì biết rằng nơi ấy vẫn có bóng người mẹ già tựa cửa mỏi mòn ngóng tin con. Ôi, nỗi nhớ quê hương quặn thắt.
Ngoài ấy bây giờ chưa nắng lắm Nhiều hoa gạo đỏ nở bên sông Tháng Giêng có tiếng chim tu hú Khung biếc trời mai én liệng vòng…
Bóng mẹ vào ra lối ngõ quen Tóc sương dần xóa tóc màu đen Nhớ con xa nhẩm lời kinh nguyện Khuya nối nghìn khuya một ngọn đèn
(“Quê hương”, Tường Linh)
“Thơ Tường Linh ra đi từ gốc rạ, để cuối cùng quay về lại với gốc rạ, trở thành máu thịt của quê hương.” (Tần Hoài Dạ Vũ). Không lời nào đúng hơn để nói về một nhà thơ của tình tự dân tộc, về một trái tim nặng trĩu nỗi niềm hoài hương. Trái tim ấy vừa ngừng đập để về với lòng đất Mẹ, về lại với gốc rạ quê hương vào những ngày cận Tết, trước ngưỡng cửa tháng Giêng này.
Một nhà thơ khác, nhác trông những bông cúc dại nở ven đường bỗng dưng cảm khái nhân vật truyện Kim Dung giang hồ bôn ba hành hiệp với hào khí ngất trời và nỗi bi tráng trời đất bao la mà không có chỗ dung thân.
Tháng Giêng có kẻ đi tìm cúc Nhưng cõi đời không có Cúc Hoa Thấy đám phù bình trên mặt nước Biết mình đi lộn nẻo bao la
(“Một ngày nhàn rỗi”, Nguyễn Bắc Sơn)
Tháng Giêng là tháng làm mới lại tình yêu của những lứa đôi, như lá yêu hoa, như nắng yêu gió, như đất yêu trời, như người yêu nhau suốt từ mùng một Tết tới ra Giêng.
Yêu người yêu khắp lá cây Yêu thêm ngọn cỏ từ ngày ra đêm Yêu từ mùng một ra Giêng Thành thân Nguyên Đán ngọc tuyền sơ khai
(“Thành thân”, Bùi Giáng)
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!” Tháng Giêng ngắn, tháng Giêng qua mau lắm, vừa mới ra Giêng là đã sắp hết tháng Giêng. Lời yêu chưa kịp ngỏ thì tháng Giêng đã như cơn gió vụt bay.
Chưa kịp mê tam cúc Xuân hồng đã trôi mau Chưa kịp hôn môi Tết Tháng Giêng son phấn sầu
(“Bấy giờ, em ơi”, Duyên Anh)
Nhiều lắm, không làm sao kể hết được những câu chuyện và những bài thơ hay tháng Giêng, đành hẹn lại mùa sau. Xin cám ơn tác giả những câu thơ trích dẫn mang đến chút thi vị cho những ngày đầu xuân.
Tháng Giêng luôn là bước khởi đầu cho những ngày tháng năm rộng mở, thênh thang trước mắt. Mùa đông dài ảm đạm đã đi qua, cầu chúc mùa xuân mới an vui, tươi sáng đến cho mọi nhà.
Nói đến thơ Nguyễn Lương Vỵ trước tiên tôi hình dung khối lượng thơ khổng lồ của anh. Làm thơ từ thuở bé và xem thơ như thứ nghiệp dĩ cuộc đời thử hỏi đến tuổi gần bảy mươi, sự nghiệp thơ của Nguyễn Lương Vỵ không thể đề cập đến kiểu bài thơ này hoặc tập thơ kia mà phải nói tầm vóc một đời thơ, một gia sản thi ca ấy như thế nào? Và có nói như thế cũng chỉ là gượng ép bởi muốn nói như thế, ít ra bạn phải mất nhiều thời gian để đọc hết các tập thơ của anh.
Tôi đọc thơ Nguyễn Lương Vỵ từ thuở còn là một sinh viên văn khoa năm thứ nhất. Lúc bấy giờ thơ anh đăng trên tạp chí Khởi Hành hoặc Văn. Tôi thích thơ anh ngoài bản thân yêu thơ, tôi còn là người luôn cổ xúy tinh thần văn nghệ của thế hệ trẻ miền Trung (đầu thập niên 1970) mà lúc bấy giờ dường như trăm hoa đua nở. Đến khi tham dự quân sự học đường khóa đầu tiên, tôi gặp anh qua một người bạn học miền Trung. Cũng khá đặc biệt là tôi cùng người bạn đến thăm anh tại bệnh viện Sùng Chính. Nguyễn Lương Vỵ bị thương do xô xát với quân cả
Từ đầu đến cuối, già 400 trang sách, tiểu thuyết “Đất mồ côi”[1] mô tả đầy rẫy những cái chết. Chết đơn chết chùm. Chết cá nhân chết nhóm. Chết trong các phong trào chính trị – xã hội, chết trong chiến tranh. Chết xưa chết nay. Chết Nam chết Bắc… Đây là một tiểu thuyết dành để nói về cái chết. Thật thế. Đến nỗi một nhà thơ, bạn tôi (mà không chỉ bạn tôi) quả quyết rằng cái tên tiểu thuyết “Đất mồ côi” lẽ ra phải là “Đất chết” thì mới thâu tóm chính xác được tinh thần của tác phẩm này.
Cái chết chính là kết quả, đồng thời là hiện thân của BẠO LỰC. Toàn bộ cuốn tiểu thuyết là câu chuyện về bạo lực, thứ bạo lực tác oai tác quái, hoành hành công khai, trắng trợn trong suốt lịch sử người Việt.
Có thể hình dung mấy loại cái chết. Loại đầu tiên là cái chết do định kiến xã hội. Những lớp người mang bệnh hủi đi qua ngôi làng bị dân làng chôn sống. Mở đầu tiểu thuyết, tác giả dựng lên khung cảnh những người hủi bị giết chết, và cả người đàn ông kỳ dị chăm sóc đoàn người hủi mang dán
Thằng Nhớ giật mình tỉnh giấc khi nghe tiếng bà ngoại đang la cái gì đó ở ngoài sân. Ánh nắng xuyên qua khe hở của cửa sổ phết thành một vệt dài trên nền nhà. Nhớ đưa tay giụi mắt, vươn vai mấy cái. Nó bước xuống giường, vén mùng lên, xếp mền gối thật lẹ rồi bươn bả bước ra nhà sau xem có chuyện gì.
Đứng gần bờ ao, bà ngoại đang nói thao thao, một tay chống nạnh, một tay chỉ trỏ, coi bộ giận dữ lắm. Thấy Nhớ ra, bà lại càng cao giọng như để phân bua:
– Thiệt là quá sức chịu đựng rồi! Ai đời quần áo buổi tối còn phơi đầy một dây mà sáng ra mất ráo trọi. Thằng ăn trộm nào mà cả gan chọc tới nhà này vậy không biết!
Nhớ hoảng hồn:
– Mất quần áo hả ngoại? Còn bộ quần áo mới để mặc Tết của con ngoại giặt cho ra hồ đâu? Cũng mất luôn chớ gì?
Bà ngoại thở ra:
– May là ngoại giặt hôm bữa, thâu vô rồi. Lần này là lần thứ ba đó. Mất ba con gà tuần trước, rồi hôm kia mất thêm cái nồi đồng nữa. Điệu này chắc nhà mình hết ăn Tết quá!
Ông ngoại đang ngồi đan rổ ở hàng hiên sau, cất giọng
Ông Địa là người mang lại cái Tết cho mọi người. Giữa tiếng trống tiếng chiêng nhộn nhịp, ông nhảy múa với khuôn mặt không bao giờ tắt nụ cười. Tôi chưa bao giờ thấy ông Địa không cười. Nụ cười của ông không chỉ là nụ cười cứng ngắc trên mặt nạ mà còn hiển hiện trong bộ quần áo xanh đỏ lộn xộn, cái bụng phệ cố hữu và, nhất là điệu nhảy tung tăng với chiếc quạt bên những chú lân và những tràng pháo đang nhoáng lửa nổ vang lừng. Trong đoàn lân ngày tết, “nhân vật” nổi bật nhất dĩ nhiên là lân. Ngày xưa chỉ có một cặp lân, con đực là kỳ, con cái là lân. Ngày nay lân cũng như người, bị nạn nhân mãn nên có cả bày lân. Con xanh con đỏ, con trắng con vàng, hoa cả mắt. Bên cạnh lân là ông Địa. Ông này thờ chủ nghĩa độc thân nên xưa hay nay cũng vậy, cứ mình ên múa lung tung. Trẻ em thường khoái ông Địa. Nhạc sĩ Vũ Hoàng có bài hát “Bé Thương Ông Địa” nói lên sự yêu mến này:
Ơi ông Địa có cái bụng ngộ ghê,
Cầm cái quạt ông nhảy múa say mê.
Ơi ông Địa có gương mặt thật duyên.
Ông mãi cười
Từ ngữ “giảo nghiệm” trong chính trường bầu cử là một thuật ngữ quen thuộc trong giới truyền thông Hoa Kỳ, khi họ nói đến chữ “Autopsy” tức là giảo nghiệm một xác chết, một thi thể nào đó để tìm cho rõ nguyên nhân dẫn đến cái chết của nó.
Đây là một thói quen và đã trở thành truyền thống mà không những giới truyền thông đều quen làm sau mỗi kỳ bầu cử lớn, nhưng ngay cả các viên chức cao cấp của cả hai đảng cũng đều làm như vậy để rút tỉa kinh nghiệm và sửa soạn cho lần tranh cử kế tiếp, tức là 2 năm hoặc 4 năm sau đó.
Người Hoa Kỳ có thói quen rất phổ thông và được mọi người chấp nhận để áp dụng trong đời sống hàng ngày cũng như cung cách làm việc trong các công ty tư nhân hoặc chính quyền, kể cả trong quân đội: đó là họ luôn luôn có lệ làm một màn duyệt lại (Review) về những gì đã vừa xảy ra, dù là thành công hay thất bại, để từ đó rút ra những kinh nghiệm để làm bài học cho những cải tiến trong tương lai.
Tiến trình gọi là Review này có thể mất nhiều thời gian, và trong
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.