Hà Nguyên Dũng
Đoàn người cốt cách tiên rồng
theo Cha đi cặp theo dòng sông xuôi
nước non gợi nỗi buồn vui
niềm sầu xẻ-nghé ngùi ngùi trong tim
cõi bờ chưa rõ chung riêng
cây cao đá cả linh thiêng – thánh thần
chó tru, vượn hú, cọp gầm
lủng trời, rạn đất nghe thần bí – vang
đoàn người lần xuống trần gian
nhỏ nhoi, lạc lõng, ngỡ ngàng, ngu ngơ
và do cái tính tò mò
một người lạc lối, quanh co lạc bầy
lui chui hốc đá, chòi cây
lò mò hái lượm qua ngày qua đêm
rồi ăn ra, rồi làm nên
nỗi sầu lưu lạc cũng quên lãng dần
vào ra dáng vẻ tao nhân
lúc trà khi rượu gieo vần ngâm nga…
Trong tay đầy một sơn hà
thành cao vua ngắm bóng tà huy buông
khẽ ngân tiếng chép miệng buồn
tiếc Hoa đô chẳng được vuông tròn đầy
trung tâm nam, bắc, đông, tây
Đại La thành quách cao dày oai phong
trông như thể hổ dáng rồng
nắng mưa thơm thảo ruộng đồng phì nhiêu
ngày vua bỏ cảnh chợ chiều
cờ treo nắng sớm, người theo vỡ bờ…
Tao nhân tỉnh tỉnh mơ mơ
trông ra nắng rực sắc cờ ven sông
phèng la, chiêng trống, mỏ, cồng
tấu vang hòa tiếng người đồng thanh reo
thất kinh, (chẳng kịp mang theo)
hồn rồng bỏ xác người vèo! Thất tung
Điềm trời, chẳng rỏ kiết hung !
Bệnh viện Trưng Vương, tháng 10 nằm 2010
N I Ề M R I Ê N G
Năm một-ngàn-chín-trăm-bảy-lăm
ta thoát được thế trường-xà-bát-quái
bèn cắm cổ cắm đầu chạy đại
trên điêu tàn, trong thương hải tang điền
vào tới Sài Gòn thấy con cháu Rồng, Tiên
nửa theo Mẹ, nửa theo Cha đoàn tụ
ta cũng gặp lại người yêu dấu cũ...
Thời Hán Sở tranh hùng, ông Hạng Vũ
khi chạy từ Cai Hạ tới Ô giang
còn được cái đầu được treo giá ngàn vàng
ông cắt cho cố nhân lãnh thưởng...
Ta gặp lại cố nhân lòng sượng
giả lả nói cười, giả lả sống cho qua
dù cố nhân đã phụ tình ta
nhưng cũng đưa tay đỡ người ngả ngựa
ta chẳng lạ gì với trò dâu bể nữa
lại xót lòng trước cảnh suy vong
ta sinh ra gặp thế nước ròng
đời kẹt cứng giữa đôi bờ bồi lở
chuyện trăm con Tiên, Rồng thưở nọ
nửa theo Cha ôm mộng lấp biển đông
nửa – quyết lòng – cùng Mẹ ở dời non
gây nên cảnh nồi-da-xáo-thịt
củi – xương tươi, khói bốc lên đen kịt
suốt chiều dài lịch sử tang thương !
Thương những người đã góp máu xương
cho cuộc dời non, lấp bể
thế nước tới ngày chuyển thế
trận bắc phong làm sóng cuộn xóa nhòa
lại cảnh người theo Mẹ, theo Cha
cảnh châu lìa phố !
mạn hỏi tiền nhân : phải chăng nghiệp số
chia tan lòng con cháu Tiên, Rồng?
đất nước liền bờ lòng thiên hạ cách sông!
Tiếc cho ta một thuở tang bồng
thà da-ngựa-bọc-thây có hơn không!
ba bốn năm trời ta muối mặt
sống nghĩ đời mình bị đóng gông!
còn trái tim không giát vàng ròng
chưa bị đời treo thưởng
trị giá nửa phần đời sống sượng
ta cắt dâng tình-xưa-cố-nhân!
Sài Gòn 01.5.2009
Hà Nguyên Dũng
Hà Khánh Quân
Cửa Đợi Sông Hoài, sông vẫn chảy
Quê Tình người gói vác sau lưng
Hột Muối Bỏ Sông không hoá biển
tâm nhập hồn thơ đi tứ tung
(H K Q)
Mỗi một cá nhân, dù trong thành phần xã hội nào, đa số cũng có những chuyến ra đi, dừng lại rồi trở về. Cuộc mưu sinh là một dòng chảy tự nhiên. Những người sinh hoạt văn học nghệ thuật, hình như có phần sinh động hơn, trong những chuyển dịch theo cuộc sống. Điều đáng quí ở họ, là sự trải lòng theo những bước chân thăng trầm của mình. Những lần ra đi bất luận dài, ngắn tính theo không gian, thời gian, đều trở thành những chuyến giang hồ thú vị, nếu chúng ta biết ươm trên bước đường những kỷ niệm buồn vui. Kỷ niệm không hình dạng, không màu sắc. Nhưng có cội rễ tiềm ẩn, và có sức sống mãnh liệt, trong tim người gieo trồng. Sự hiện diện của kỷ niệm, thường được bắt gặp rõ nét trong âm nhạc và văn chương. Thi ca có lợi thế bởi tính chất cô đọng, nên kỷ niệm thường trở nên trong sáng, thân thiết. Đọc thơ Hà Nguyên Dũng, là cơ hội có thể gặp lại những kỷ niệm của mình. Hơn thế nữa, có thể vay mượn kỷ niệm của nhà thơ, để hình dung, để nhìn ra một địa danh, một hoàn cảnh mình chưa được mục kích, trải nghiệm.
Hà Nguyên Dũng, người Quảng Nam, tên ông là Nguyễn Dũng, được sinh ra năm 1946, tại Hà Mật. Đơn vị hành chánh cấp xã này, còn được gọi, hoặc nằm trong con đất mang cái tên mộc mạc Gò Nổi, thuộc huyện Điện Bàn. Một huyện gồm mười chín xã và thị trấn Vĩnh Điện.
Trước đây, tôi từng có ý nghĩ lệch lạc về bút hiệu của tác giả Quê Tình (1992), Hột Muối Bỏ Sông (1996), Cửa-Đợi-Sông-Hoài (2002). Tôi cho rằng Hà Nguyên Dũng là sự ăn theo một nhà thơ, đi trước anh mấy năm: Hà Nguyên Thạch. Không phải để sửa sai, nhưng tôi hy vọng lần này tiên đoán của mình chính xác:
Nhà thơ đã dùng chữ đầu của địa danh mình sinh ra, để làm một cái họ mới. Tiếp theo, bỏ bớt dấu ngã trong họ chính, biến Nguyễn thành Nguyên. Sau cùng, trân trọng giữ lại tên cha mẹ đặt. Hà Nguyên Dũng thành hình thật đơn giản và nồng nàn ý nghĩa, nếu ta suy diễn, không cần thi vị hóa: Tác giả là người giàu lòng yêu quê hương, yêu nơi mình đã được sinh ra, được trưởng thành. Tâm nguyện của anh không vượt quá khả năng thiên phú. Anh đã tạo được một dòng thơ, biết hít thở cùng sông núi. Anh đã thành công. Tôi tin rằng, với cuộc sống chật vật thường trực, Hà Nguyên Dũng đã rất nhiều lúc tự mỉm cười, mãn nguyện. Anh có nhiều bạn đọc. Có nhiều kẻ ái mộ. Làm sao không sung sướng, thú vị, khi có người đọc lên, nhìn ngắm bút hiệu của mình. Một bút hiệu, trong đó có một nửa cái địa danh mình trân quí nhất: Hà Mật. Cuộc hôn phối tên gọi không rõ nét như Phạm Cây Trâm, Tràm Cà Mâu, Miên Du Đà Lạt... nhưng rồi mọi người sẽ biết khi tìm hiểu về tác giả.
Như bén ý từ những dòng đầu, thơ Hà Nguyên Dũng là kho cất giữ kỷ niệm, trong cả cuộc đời bênh bồng, mà không mấy giang hồ của anh. Trong tập thơ đầu tay, Quê Tình, sau mười năm tha phương, Hà Nguyên Dũng trở lại quê nhà, với một tâm hồn không đậu được những nụ cười bình thường, vốn có từ những người hồi hương. Ngoại cảnh và nội tâm, bắt tay nhau dìm nhà thơ trong cõi buồn chán cùng cực. Nỗi hiu quạnh, lạnh lẽo, không đến từ một cơn gió. Chiếc bóng của người về, phản chiếu trên dòng sông, chợt chao động, vì chính cái thở dài, thầm lặng dội ngược vào lòng. Từ đó, người con của sông, ruộng chỉ tìm thấy những nghi vấn đầy bi quan. Bằng hữu, người tình đến cả thực vật, tĩnh vật, cũng mang sắc thái chán chường, ảm đạm. Bài thơ bảy chữ, gồm năm khổ, đều đẹp ở kỹ thuật và ngôn từ. Hình ảnh mang trách nhiệm nói lên tâm trạng, thật thích hợp, trọn vẹn. Bạn dễ dàng nhận ra điều này, không cần tôi phải ba hoa:
Qua đò một chuyến đi mười năm
nay mới đáo về quê cũ thăm
gió tạnh, lòng rung làm động bóng
bèn hỏi, thân mười năm trước chăng ?
mười năm trở lại đâu tìm ra
bạn xưa như những đám mây xa
em xưa chẳng khác vầng trăng mấy
lặn-mọc-khuyết-tròn khuất cõi ta
mười năm trở lại ra sông ngồi
trông đò ngang lại ngắm đò xuôi
đò về mấy chuyến khoang đầy gió
đành bụm nước sông mà thấm môi
mười năm trở lại nom thấy bóng
trong lòng giếng cổ một mình ta
nhặt viên sỏi bể ta toan ném
cành khế rùng mình chiếc lá sa
mười năm trở lại buồn như khói
ngun ngút trong lòng mí mắt cay
thương đất quê nhà pha cát sỏi
hạt cơm phải cõng lát khoai dày !
(Mười Năm Trở Lại – Quê Tình, trang 23 &24)
Trở về là để ra đi, gần như cái nghiệp thực thi bình thường. Đối với con dân của vùng đất Hà Mật, cái nghiệp này được minh chứng một cách cụ thể. Ngoài cái lạc hậu, nghèo nàn, mẫu số chung của hầu hết nông thôn Quảng Nam, thời chiến tranh. Sự hiện diện chờn vờn, của hai thể chế chính trị đối nghịch sống chết, trên cùng một vùng đất, cũng góp phần tích cực, đẩy tuổi thanh xuân xa dần cái nôi họ được sinh ra. Và vì không thể chối bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, sự đi đi về về, được xem như là một phương thức, được nhiều người áp dụng. Nhà thơ Hà Nguyên Dũng cũng chọn giải pháp này. Một trong nhiều chuyến thăm nhà khác, nhà thơ đã hội ngộ với bến đò Hà Mật. Cái bến đò được coi như là cửa ngõ, cổng vào vạt đất đỡ đầu của anh. Dĩ nhiên thơ đã được dùng đến, để giải tỏa những xúc cảm, những suy tưởng của người làm thơ, trong giây phút vừa hội ngộ vừa chia tay.
Nhờ kỹ thuật vững vàng, những hình ảnh trưng dụng khá cũ, trong bài Qua Đò Hà Mật, được cứu thoát sự nhàm chán. Đồng thời, cũng giúp hơi thơ thở trọn vẹn cái không khí xót xa, mà tác giả muốn đạt đến:
Hăm lăm năm trước bến sông này
khách xuống đò lên đường gió bụi
mang mái rạ, dòng sông, dáng núi
ý chí tang bồng, đi viễn phương
bao nhiêu sóng gió, bao đoạn trường
xoi lỡ chân đời cây bậc rễ
thân nghiêng nghiêng ngã vào bóng xế
lá tóc sâu quăn, đã bạc lòng ?
đời như sông khúc rộng, khúc nông
lòng người lớn ròng như nước
ta – Lưu, Nguyễn , lỡ đường thắp đuốc
lơ quơ soi tìm lại đường trần
ngày ta đi lửa cháy trong thân
ngày trở lại bụi tro than đóng
có phải bờ lau tân khách vọng
nước sông Hà như Dịch thủy trôi
đò dọc đò ngang hút bóng rồi
có tiếng dế trong hồn ra rả
con chim về rúc trong vòm lá
ta rúc đâu đây, đêm mịt mù
ngọn đen dầu tỏa bóng phù du
chén rượu lạt, không hâm lòng nổi
ngoài sóng gió tung trời, mưa xối
rừng quê cây ngả rã riêng lòng
ta lại đi trên nỗi thương mong
không biết được phương nào ta tới
quanh đời ta trăm con sóng dội
hai nhánh tay không chống nổi lòng !
(Qua Đò Hà Mật – Quê Tình, 11,12, 13)
Có thể lượm ra từ bài thơ trên những từ đẹp, thích hợp: lá tóc, lơ quơ, rã riêng lòng. Những câu thơ hay: xoi lỡ chân đời chân bật rễ - lá tóc sâu quăn đã bạc lòng - chén rượu lạt không hâm lòng nổi - quanh đời ta trăm con sóng dội. Và những liên tưởng rất thơ: có tiếng dế trong hồn ra rả / con chim về rúc trong vòm lá / ta rúc đâu đây, đêm mịt mù.
Bài kế tiếp trong cùng tập Quê Tình, Hà Nguyên Dũng đã ví sự ra đi của anh như một dòng sông. Tác giả không giấu những điểm đến trong ước mơ của mình: “... từ làng quê tôi mơ ước những phương trời / đất ngọt phù sa, trời thơm nắng mật, nơi bóng đàn chim bay mát đất...Ngày tôi đi mơ ước no lòng.....” Sự chân thật này, có thể đánh rơi một phần nào cốt cách của người lãng tử. Rất may, Hà Nguyên Dũng đã diễn tả tâm trạng của những người trong cuộc, cũng như ngoại cảnh nơi diễn ra cuộc chia ly thật tuyệt vời:
“... em gánh nước về sững người, khựng lại
đôi thùng chao, nước sánh, lòng rưng rưng
em vịn cây đòn gánh ngó mông lung
chân tôi bước đầm đầm qua ngõ vắng...”
...
“khi tôi nhổ tôi ra khỏi chốn chôn nhau
nhổ vụng trộm làm đứt chùm rễ cái
nên tôi bây giờ lòng sầu héo mãi
dẫu quê người đất ngọt trời thơm”
(Đi, Cũng Như Sông – Quê Tình, 14, 15)
Tôi chợt hình dung được sự gật gù thú vị của Hà Nguyên Dũng khi anh hạ tay viết lên được động từ nhổ một cách thích hợp, ngon lành đến vậy. Và động tác này được đi liền với một trạng thái lo sợ không đâu, thật dễ thương: nhổ vụng trộm. Bốn chữ làm đứt chùm rễ cái cũng là một hình ảnh xuất thần, giàu thơ, không dễ được nhiều lần bắt gặp. Hà Nguyên Dũng vừa bụng với chính mình là đúng thôi. Cái hạnh phúc của người làm thơ, tuyệt đỉnh ở điểm này.
Với ba mươi sáu đứa con, được khai sinh bằng những tên gọi khá đẹp, Hà Nguyên Dũng, đã “đăng ký” cùng nhà xuất bản Văn Nghệ để xin “hộ khẩu” cho gia-đình-thơ thứ nhất của anh. Quê Tình là tên chung của tổ ấm, không dành riêng cho thành viên ngũ ngôn, lục bát, hay thất ngôn... nào. Tổng thể của nội dung, cũng quây quần bên gốc tình dành cho con đất, con người, vốn cùng màu da với tác giả. Dĩ nhiên, hồn đất Hà Mật là nguồn cội cho dòng thơ quê hương Hà Nguyên Dũng. Với những nơi lưu cư, tạm dung hoặc tình cờ dừng chân, anh chàng người thơ đất Quảng Nam cũng không thiếu những lãng mạn, bay bướm. Cụ thể, với Đà Lạt, anh đi dạo ngắm hoa, và ngộ ra thơ:
“... chân ta bước ngập ngừng qua mấy nẻo
hồn ta bay mắt lượn sa đà
vì trong sắc màu lên tiếng réo
hồn hoa còn thoang thoảng hương xa...”
(Nghĩ Từ Đà Lạt, Quê Tình, 86)
“... Đà Lạt buồn như nỗi tình xa
buồn lây sang những sắc hoa, và
những vòng tay khép đan che ngực
sợ lỗi nhịp tình, sợ vắng xa
Đà Lạt mặt trời như bóng trăng
mắt em sầu đẹp và mơ màng
ngày tôi trở gót chân du lãng
em ngó, lòng như muốn quá giang”
(Đà Lạt, Quê Tình, 58)
Hoặc với một cuộc tình có thật lẫn không thật ở Lộc Ninh:
“... Giang khách tìm một quán rượu quen
nhấp nhá vài chung cho ấm dạ
nữ quán nhìn ta ngờ ngợ quá
đâu ngờ hai tóc đã lên sương
...
hơn mười năm giấu kín nỗi lòng
đành làm khách qua đò vô thủy
ai biết được tận trong cốt tủy
nhưng nhức đau hoài một vết thương
...
nằm một đêm chưa ấm vạt giường
khách trở gót trời chưa sáng hẳn
nếu quả nghiệp giang hồ còn nặng
thì thôi, xin khách cứ ra roi
...
khách đi không hẹn lấy một lời
chẳng biết rẻo trời nào khách ở
Lộc Ninh có còn là nỗi nhớ
trong lòng giang khách nữa hay không !”
(Ngày Trở Lại Lộc Ninh – Quê Tình, trang 60-65)
Và với Ngày Trở Lại Biên Hòa :
“ những ngọn roi thương nhớ quật quật đau lòng
buộc ngươi phải vòng về phương mộng lỡ
ta đâu hay ngươi buồn, ta cầm muỗng gõ
hát vu vơ và ngó vu vơ
...
hai mươi năm về thành cũ gió bồi
ngươi ngậm ngải tìm trầm trưa phố nắng
một cái sẩy tay, một đời hụt hẫng
ngậm ngải mà đi về phía quê người”
(NTLBH – Quê Tình , 66-67)
Quê Tình đã được mở ra bằng bến đò Hà Mật, và cũng được khép lại, bởi chính vạt đất cưu mang bến đò này. Thi phẩm chấm dứt với sự về thăm của nhà thơ. Một dừng tay có vẻ có hậu, tuy không là một điều cần có trong thi ca. Chúng ta thử nghe nhà thơ dàn trải tâm sự mình ra sao, trong ngày trùng phùng chớp nhoáng cùng quê hương:
Hăm mấy năm chu du bốn phương
hơn đám mây trời phiêu lãng
tiện ngõ ta về thăm cố quán
đám trẻ thấy ta, ngó - xầm xì
sực nhơ ngày ta xuống đò đi
tuổi xấp xỉ bằng đàn trẻ đó
hăm mấy năm đầu mưa đầu gió
nay về cố quán biển dâu thay
từ lùm tre chim hoảng hốt bay
như cũng sợ con người lạ lẫm
vai đãy, áo quần mưa nắng đậm
đầu trần tóc cỏ cháy xơ rơ
mẹ ta, đôi mắt đèn dầu mờ
soi sát mặt thằng con yêu dấu
ta ra sông rửa khoai lang nấu
tiệc quê biệt đãi đứa con quê
ngôi nhà xiêu không bóng cây che
nắng nóng nhiễu và mưa rỉ rả
vồng khoai không kịp đâm đọt lá
cọng tong teo như cọng kẽm gai
mặt trời sa bóng nhoài – dài
ai đội củi đường xa lúi chúi
nén bó củi mừng mừng tủi tủi
người đi, người ở bàn tay không...
ta vội vàng xuống bến xuôi sông
chiều hối, gió đưa con sóng giục
lòng sông và lòng ta lềnh đục
một nỗi buồn đau kẻ bỏ nguồn !
(Ngày Về Hà Mật, Quê Tình, 97-99)
Nếu dựa theo lời thơ, ta không tìm thấy được bao nhiêu tâm sự của nhân vật chính. Người làm thơ đã khéo léo vịn vào những cảnh vật anh nêu lên, để thở vào đó những xót xa của mình. Hình ảnh ngoại cảnh là yếu điểm chính, từ đó hình dung ra nhân vật. Ngay người mẹ được nhắc tới cũng trở thành một ngoại cảnh, dù có biểu thị tình cảm bằng việc soi sát mặt đứa con. Bài thơ trở thành một họa phẩm. Được hoàn thành bởi chất liệu, lấy ngay từ cuộc sống mộc mạc nông thôn. Một nông thôn nghèo đói vì chiến tranh, không có nổi một bóng cây, đủ để che mát một mái rạ nhỏ. Nắng nhiễu nóng, mưa rỉ rả làm cùn mòn cả cỏ cây. Khoai sắn tong teo, gầy khô như một cọng kẽm gai. Thân xác con người từ đó, có thể suy ra.
Hà Nguyên Dũng một lần nữa chứng tỏ khả năng chọn chữ, và sắp xếp ngôn từ. Thật không thể không thấy: hoạt cảnh một đám trẻ em xầm xì, vì sự xuất hiện của một người thân đã lạ. Rồi đến những con chim thân thiết một thời, cũng chẳng đánh hơi ra được, sự thân tình đã có. Rất may, vẫn còn cái mừng mừng tủi tủi đến hốt hoảng trong giây lát. Tưởng cũng cần nên biết, thời gian của một cuộc thăm nhà, dù nhiều năm xa cách, thời bấy giờ, vẫn không mấy khi được kéo dài qua đêm. Đây cũng là nguyên do, ta thấy được những chữ dùng của nhà thơ thật chính xác “ta vội vàng xuống bến xuôi sông / chiều hối, gió đưa con sóng giục”. Cuối cùng mới lóe lên tâm sự người con của Quê Tình :
lòng sông và lòng ta lềnh đục
một nỗi buồn đau kẻ bỏ nguồn !
Giản dị chỉ có thế mà chua xót biết bao nhiêu. Hơi thơ của Hà Nguyên Dũng quả thật quá buồn, rất gần với ta thán, có lẽ vì vậy anh thường sử dụng dấu chấn than cho kết thúc một bài thơ.
Quê Tình, ngoài những bài thơ ẩm nước mắt dành cho quê hương, Hà Nguyên Dũng cũng không thiếu những ngọn chữ dành cho tình lứa đôi. Có điều thơ tình của anh cũng là một cõi bi quan không biên giới:
“... em chẻ đường ngôi cầm lọn tóc
tóc khô như thể đã khô lòng
ta đi như một con đò dọc
thuận gió lòng căng chẻ sóng dong
ta có trong ta một bến vắng
còn nghe sóng mắt của em chao
ta ngồi vò võ bên trời lặng
nghe tiếng chân ai lội cắm sào...”
(Hụt Hẫng, Quê Tình, 44-46)
“Buổi ta đi em đứng ở bên lề
đôi mắt chiếu sáng dài theo quốc lộ
ta quay lại thấy em như cột số
dựng chênh vênh trên dốc khúc quanh đường
ta đã đi và đã đến ngàn phương
không nhớ được em là cây số mấy
chỉ mang máng trên đường xuôi ngược ấy
cây-số-em thoáng hiện vụt qua lòng
xa Ngọc Hà ta có nhớ buồn không
ta chẳng bết bởi lòng ta lắm nỗi
một thoáng em mỏng mảnh như làn khói
dựng âm thầm trong buổi chiều khô
em thấy ta như thấy chiếc xe đò
hành khách xuống lên đứng ngồi lố nhố
em vẫn biết trong ta không còn chỗ
nên đắn đo không dám quá giang lòng”
(Khi Xa Ngọc Hà, Quê Tình 49-50)
Ví von, kiểu cọ thường hay làm phiền lòng bạn đọc, nhất là khi nghiêng mắt vào những văn bản được gọi “đọc thơ”. Cũng may, bài viết này cũng như nhiều bài đã viết khác của tôi, chỉ mang tính cách ăn theo một tác giả, tùy hứng mà vui chơi, không có cả một bố cục, một lối viết chính qui nào làm khuôn mẫu. Bạn đọc nếu đồng tình và dư giờ chút đỉnh mời đọc chơi. Những bài viết thuộc dạng vô thưởng vô phạt này, không dự phần vào chữ nghĩa cao cả của văn chương. Cùng lắm nó chỉ dành cho người viết và người được viết, đọc lại một số thơ, cả hai cùng yêu thích. Người viết không có trình độ cần thiết của một nhà phê bình, nên ở đây không dựa vào những ý kiến thông thái của bất cứ ai làm thước đo để so sánh thơ đang đọc. Dẫu sao, cũng để sẵn một lời xin lỗi ở đây, cho những ai vừa đọc vừa chửi thề.
Tôi không gọi ngôi nhà thơ, mà nhìn nhận gia-đình-thơ, bởi vì có ngôi nhà chưa chắc có gia đình. Nhưng có gia đình, thường không thể không có ngôi nhà. Gia-đình-thơ thứ hai của Hà Nguyên Dũng, tôi đang ghé thăm có tên gọi Hột Muối Bỏ Sông.
Điều trước tiên, không thể không ngẫm nghĩ về cái tên tác phẩm. Có thể Hà Nguyên Dũng cho rằng: thơ anh có đầy đủ tính chất nồng mặn của hột muối. Một tinh thể đầu thai từ nước biển, cần thiết cho con người. Và có lẽ, anh cũng đã hình dung thi ca là một dòng sông. Hột muối bỏ sông, sông không thể có vị mặn, nhưng hột muối ắt bị hòa tan. Sự khiêm nhường được nhìn thấy ở đây. Nhưng không hẳn như vậy. Ông bà ta hình như đã có nói “đem muối bỏ biển” để phê phán một việc làm vô ích. Muối-Thơ của Hà Nguyên Dũng không bỏ biển mà bỏ sông, hẳn nhiên ít nhiều cũng có niềm kiêu hãnh. Muối-Thơ của Hà Nguyên Dũng vóc dáng như thế nào ? Giá trị căn bản ra sao ? Câu trả lời, quyền thẩm định, tùy theo từng bạn đọc. Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn những gì mình thích, nếu hứng, sẽ tán tào lao đôi dòng, gọi là cảm ơn tác giả.
Bàn tay, bã vai, Hà Nguyên Dũng đã níu kéo, vịn vào để làm thơ, trong thi phẩm này, vẫn còn là những con đất, những địa danh. Nhớ về một “Mùa Hè Đỏ Lửa”, một chiến công của VNCH, ngày 16 tháng 9 năm 1962, dựng cờ trên cổ thành Quảng Trị, tác giả đã rất khéo léo, trưng ra những dòng thơ chung chung, cho cả hai phe tham chiến. Nhà xuất bản Trẻ, đơn vị chịu trách nhiệm xuất bản thi phẩm, không thể cắt bỏ. Chỉ tiếc bài thơ, có thể có nhiều người chỉ đọc lướt qua:
“Chỗ ở về chưa quen lối
tên người còn lạ miệng môi
Quảng Trị mùa hè lửa nổi
thịt xương cháy khét ngộp đời !
Anh đi trên đầu bom nổ
anh đi trên những xác người
cuộc sống chi mà cơ khổ
Chúa ơi ! Phật ơi ! Em ơi !...”
(Ở Quảng Trị, HMBS 14-15)
Năm 1981, tác giả có dịp trôi giạt đến Mỹ Lợi, Tiền Giang, để viết được những dòng ấm áp, xinh xắn hơn:
Mỹ Lợi ! đất ma không bén mảng
cây suy dinh dưỡng, tiếng chim khàn
thoáng thấy bọn ta về dựng lán
bên dòng kênh đục đĩa hân hoan !
...
có đứa vô lo nằm đã ngáy
hiếm khi ta thấy giấc mơ hiền
phải chi có tiếng gà thôn gáy
để thấy đời không đến nỗi quên !...”
(Mỹ Lợi, HMBS 23-25)
Đọc lướt qua những dòng thơ từ quê hương mà có của Hà Nguyên Dũng, tôi thấy rất rõ một điều. Cái chất Quảng Nam trong thơ anh thật đậm đà. Đây có thể là điều đương nhiên với riêng anh. Chính vì thế những bài thơ viết về Vĩnh Điện, Quảng Nam, Hội An... của anh đọc thật xứng với những cái rung đùi, gật gù, mà không cần hớp một ngụm trà hay tu một hớp rượu. Có thể tôi chủ quan vì tình đồng hương chăng ? Mời bạn đọc thử bài Vĩnh Điện, nếu bạn đã từng ghé nơi này, xem bài thơ của Hà Nguyên Dũng đã đạt chưa ? Tôi nhân danh cháu ngoại của Vĩnh Điện cảm ơn bạn và nhà thơ.
“Vĩnh Điện, tôi về ngày cuối năm
mùa đông buồn như một đám tang
khéo co cho mấy lòng vẫn lạnh
nỗi xót xa quê cứ rỉ tràn
Vĩnh Điện bao năm còn nghèo khô
Vĩnh Điện khéo ăn vẫn không no
những ngôi nhà như người luống tuổi
lọm khọn hai bên vẻ ngóng chờ
tôi coi Vĩnh Điện như người thân
Vĩnh Điện ngờ tôi là tha nhân
tôi vịn vai cầu ôn chuyện cũ
nhớ xót xa thuở mẹ tảo tần
thuở đó tôi thường lũn cũn theo
gánh trì vai mẹ bước xiêu xiêu
tay quơ tay níu vào mưa nắng
mẹ cố trườn qua nỗi ngặt nghèo
Vĩnh Điện như một bàn tay gầy
chợ đông không đầy được nửa ngày
tôi ngồi dụi dụi vào vai mẹ
bóng mẹ hiền thơm tợ bóng cây
Vĩnh Điện có hai đường ngã ba
một ngược lên đụng núi dội ra
một xuôi gặp biển sóng xô lại
quốc lộ chạy qua rước hết và
Vĩnh Điện như một người neo đơn
mũi đông trông thiệt dễ mũi lòng
tôi trong Vĩnh Điện sao côi cút !
tôi ngoài Vĩnh Điện sao bồn chồn ? !”
(Vĩnh Điện, HMBS, 55-57)
Bên cạnh địa danh, sông, ao, vườn, ruộng..., con người và cả những nhân vật lẫy lừng một thời, cũng được Hà Nguyên Dũng men theo họ mà lượm thơ. Cũng na ná như Hoàng Lộc, Phan Xuân Sinh...Hà Nguyên Dũng thường bày tỏ tâm sự u uẩn của mình qua những đối thoại tưởng tượng. Đây có phải là cơ hội, để nhìn ra cái khí phách của một người làm thơ chăng ? Dù sao, cả ba nhà thơ đất Quảng, nhờ tài nghệ và trải lòng mình ra để ươm con chữ, nên những bài của họ đã vượt xa, vượt rất xa thơ của một người, cũng từng hầu chuyện cùng đức Trần Hưng Đạo.
Trong Hột Muối Bỏ Sông, Hà Nguyên Dũng đã vịn vào Nguyễn Trải, Âu Cơ, Thúy Kiều, Sơn Tinh Thủy Tinh, Tiên Dung, Quan Công, Mỵ Châu, Hạng Vũ, Lã Vọng...để cho chính anh và bạn đọc, những sáng tác mà tôi tin anh rất ưng ý. Vài đoạn tiêu biểu trong loạt bài nêu trên:
“... ông sống xả thân, chết chẳng toàn thây
do trời cảm tấm lòng ông trung hậu
linh, làm Thánh có nơi nương náu
thân, làm ma đi vất vưởng tìm đầu !
tôi sinh trong thời phố giạt xa châu
thiên hạ đứng núi này trông núi nọ
tôi kẹt giữa hai sườn núi đó
nào khác chi thân cá chậu chim lồng !
...
từ bờ tre tôi cõng thân lên đường
không biết sẽ trôi sông lạc chợ
may thiệt, cuối cùng tôi hạnh ngộ
Nhà-thơ, tôi xách bút theo phù
tiếc, tài sơ, sức mọn, viết ngòi hư
dẫu sống xả lòng cũng không nên nổi
nay râu tóc úng buồn đỏ ối
chưa nên danh còn đợi đến bao giờ ?!
dù nên hư tôi dốc chí phù thơ
lòng vẫn biết Nhà-thơ giờ thất tán
cuộc trăm năm của tôi gần mãn hạn
biết đất trời có cảm tấm lòng tôi ?!
(thơ Làm Ở chùa Ông, tặng LH, HMBS 90-91)
tôi quả là một đứa thất phu
chí múc không đầy vỏ hến
sức cùng lắm ngang bằng sức kiến
không nhắc thân lên khỏi mặt đời
...
tôi thiệt không dám sánh cùng ông
nhưng cạn nghĩ thấy có đôi chỗ giống
ông, cùnh Hán tranh hùng, tôi, cùng đời tranh sống
ông thua thời, tôi lợ vận: tay không !
...
(Tâm Sự Cùng Hạng Vũ, HMBS, 101-103)
Với Hột Muối Bỏ Sông, Hà Nguyên Dũng đã đề tặng khá nhiều người anh quen biết. Tôi nghĩ rằng nội dung những bài thơ ấy là những dòng kỷ niệm rất đáng trân quí. Nhà thơ Hoàng Lộc chắc chắn sẽ vui khi đọc:
“... ta đứng buồn như dấu chấm than
cái bắt tay mạnh như dâu chấm
dấu chấm hết nửa đời lận đận
nửa đời ngươi toan dựng nghiệp thơ !
giờ ngươi đi như nước thoát bờ
ta còn chảy quẩn quanh trong nội
nguồn ngọn đã chia xa mấy đỗi
mà nghe róc rách mãi trong lòng...”
(Cuộc Chia Ly, tặng Hoàng Lộc, HMBS 53-54)
Thật ra, dù vịn vào một ai, mục đích chính của tác giả cũng chỉ mong giải bày tâm sự của mình. Những thua thiệt trong cuộc sống đời thường, tạo ra sự thất chí. Và từ bàn đạp này nỗi bi quan mỗi ngày một sinh nở. Tôi vẫn hoài nghi những nhà thơ thường nghiện nặng chứng bệnh bi thảm hóa cuộc sống của mình. Riêng nhà thơ Hà Nguyên Dũng có thật sự quá khó khăn trong cõi sinh nhai ? khi anh đã có đến ba thi phẩm được ấn hành. Một hạnh phúc, vượt lên trên nhiều người làm thơ khác. Nhưng trước khi tìm hiểu thêm về vấn đề này. Chúng ta thử xem qua gia-đình-thơ thứ ba của anh.
Cửa-Đợi-Sông-Hoài, tên thi phẩm, đúng là một lối chơi chữ, như nhà thơ Thành Tôn nhận xét. Đây vốn là hai danh từ riêng. Một của dòng sông; sông Hoài tại Hội An. Một của cửa biển; Cửa Đại cũng thuộc Hội An. Cửa Đại, còn được một số dân địa phương quen gọi là Cửa Đợi. Với hai tên ghép chung: Cửa-Đợi-Sông-Hoài, những người không phải là con dân xứ Quảng Nam, đa phần sẽ hiểu một cách đơn giản nhưng thi vị hơn: cánh cửa luôn luôn đợi chờ dòng sông - Cửa (danh từ), đợi (động từ), sông (danh từ), Hoài (trạng từ, có nghĩa luôn luôn) – Hình ảnh này nói lên được sự khắc khoải đợi mong những người con xa xứ (trong đó đương nhiên có Hà Nguyên Dũng) trở về. Nếu tôi là tác giả, tôi sẽ không thêm vào bốn gạch nối dính liền bốn chữ.
Cửa-Đợi-Sông-Hoài mở ra với dấu ấn có phần lạc quan. Cây mai là biểu tượng của tác giả đã rất thong dong, tự tại, gạt ra được những buồn phiền:
Chịu hãm mình trong chậu đất
không ai thúc bách được lòng ta
quanh năm ai nói, ai cười, mặc
gặp tiết xuân lành ta thốt hoa
Dấu hiệu vui coi vậy mà hình như không phải vậy.
Thơ Hà Nguyên Dũng vẫn còn xót xa buồn. Ba nét vẽ nổi trội trong Hột-Muối-Bỏ- Sông gồm: Mẹ, Vợ và Cái Tôi (của tác giả), được giới thiệu qua nhiều thể loại thơ khác nhau:
Với hơi thơ lục bát rất gần với ca dao đơn thuần, Hà Nguyên Dũng dành 48 câu trân trọng và thương nhớ cho người mẹ thân yêu của mình. Tình mẹ thời nào cũng bao la, cao cả. Âm nhạc, văn thơ, hội họa, nhiếp ảnh, điêu khắc... luôn luôn dành cho người mẹ ngôi vị trang trọng nhất. Hà Nguyên Dũng là nhà thơ, anh không thể cho phép ngòi bút mình bỏ quên công việc thiêng liêng này.
Tuy vậy, xin đời hiểu giùm: viết về những người thân yêu nhất của mình, là một công trình khó khăn hơn bất cứ chủ đề nào. Một phần quá nhiều tư liệu, quá nhiều hình ảnh, và hình ảnh nào cũng đẹp, không nở bỏ. Quá nhiều kỷ niệm. Buồn vui đều đáng được khoe khoang, lặp lại. Viết về những người thân yêu như gặm nhấm, sờ mó lại những gì đã có, vẫn còn đó, nhưng thật vô cùng xa cách. Viết về những người thân yêu là sống lại trung thực nhất với một quãng đời đã trôi qua, nhưng chưa hề mất. Chi tiết này, hình ảnh nọ, từng câu nói, từng tiếng cười, chen lấn, chồng chất lên nhau để đến với trái tim, với tâm hồn, chực chờ ngấm ra ngòi bút. Giữa những hổn loạn thầm kín đáng yêu ấy, phải nói là thật khó giữ được bình tĩnh để xử trí phân minh. Thậm chí đến sự sáng suốt nhiều khi cũng trở nên lạng quạng. Có lẽ vì tâm trạng chung đó, bài lục bát Ngồi Buồn Nhớ Mẹ của Hà Nguyên Dũng, chỉ đủ để đọc với xúc động. Nhưng chưa thuộc vào những bai thơ về mẹ xuất sắc.
bên phần ướt mẹ co, lo
con bên phần ráo ngáy no giấc hồng
lừa xương, xương xóc lưỡi phồng
miếng cơm búng Mẹ ngọt dòng sữa thơm
gót chân tôi bợt màu son
mẹ tôi sớm phải chịu đơn chiếc, đời...
như nhà không cột, Mẹ tôi
choãi người chống chọi, căng đời chở che
trên vai đôi thúng nặng đè
đường xa bấm mãi ngón tòe, gót chai
...
Mẹ tôi bước - bước nữa, la
mong nhà có cột, nóc mà náu nương
lòng tôi cạn xợt như mương
nửa thầm giậ, nửa thầm thương - ngậm ngùi
...
bên quan tài Mẹ xót xa
Mẹ - nguồn nước ngọt chan hòa đời con
...
Mẹ ơi, trước bước chân còn
nào sông nào biển nào non núi và
xưa còn Mẹ dắt con qua
sa cơ có Mẹ con sa lòng nhờ
...
ngồi buồn nhớ Mẹ, thầm thương
tôi côi cút giữa bốn phương mặt trời
ai nhường phần ráo ? Mẹ ơi
mắc xương con chịu ! Nghẹ đời con cam !”
(Ngồi Buồn Nhớ Mẹ, HMBS 11-14)
Vợ, theo tôi, là người đàn bà quan trọng đặc biệt, không có vị trí xếp hạng trong lòng, trong tình, của một người làm thơ phái nam. Từ xưa đến nay kẻ sĩ làm thơ tặng vợ không phải là ít. Nhưng số lượng phổ biến, so với thơ viết về mẹ, dứt khoát thua sút. Trái lại, giá trị nghệ thuật lẫn nội dung thường vượt trội. Điều này, có lẽ đã nhờ vào mùi hương xinh xắn, cùng cái tiềm ẩn kỳ diệu của một thứ tình nuôi giòng, giữ giống mà có. Cá nhân tôi, thú thật, rất tâm đắc với những bài được nhiều tác giả, viết về người đầu ấp, tay gối.
Hà Nguyên Dũng lập gia đình từ lúc nào, không rõ. Tình vợ chồng đến liền sau tình yêu hay không, không biết. Chỉ thấy được qua thơ, anh đã làm khổ vợ. Một việc làm tự nhiên, theo bản tính của nhiều ông chồng làm thơ. Thơ không đi liền với khổ. Thơ sánh vai khắng khí với sung sướng, hoan lạc. Nhưng diễm phúc này, chỉ dành độc quyền cho người đích-thực-làm-thơ.(có cả triệu người không hề là người-làm-thơ-đích-thực, dù họ nhân danh thi sĩ, có in thiệp phát không). Cái nhận định: Thơ đi liền với Khổ, có thể có thật. Và dẫu cho có thật, cũng chỉ dành cho một người duy nhất. Đó là người vợ của những nhà thơ. Tôi không rõ qúy bà Nguyên Sa, Hữu Loan, Du Tử Lê, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Thái Tú Hạp, Tô Thùy Yên, Nguyễn Tất Nhiên, Trần Dạ Từ vv... khổ như thế nào. Riêng với bà Hà Nguyên Dũng được đọc thấy ngay đây:
“trong thơ anh đầy bóng dáng nhân tình
và giọng điệu xem ra còn luyến tiếc
trách giếng cạn mà lòng sao tha thiết
nước đổ rồi lại mong hốt đầy ly...
anh cơm nhà mà lo cái chi chi
chẳng lợi lộc bao nhiêucho cuộc sống
em và anh đồng sàng dị mộng
em lo ròm người chuyện mặc ấm ăn no
anh lại nằm cạy óc kiếm câu thơ
em đã phải bao nhiêu lần nhuộm tóc
không phải làm duyên mà giấu niềm khó nhọc
để anh yên lòng bắt bóng cầu danh
anh vui buồn với những giấc mơ anh
em vui buồn chuyện bán buôn ế, đắt
ngày mới cưới em tuy không tuyệt sắc
nhưng phải đâu là cỏ nội hoa hèn
mà giờ đây đã tiều tụy, hom hem
do em phải làm thân cò lặn lội
chồng và con như lũ tằm ăn rổi
nên trăm dâu trút xuống một đầu tằm
anh làm thơ, như làm ruộng ăn cơm nằm
em nuôi chồng con, như nuôi tằm ăn cơm đứng
cặp nhẫn, đôi bông gỡ dần lúc túng
đôi ta giờ còn lại chút nhau thôi
và hai con làm của quý để đời
...
anh sống lơ mơ với chuyện hão huyền
không biết được gạo trong thùng còn, hết
khi thấy con nghiêng nồi cạy, vét
anh giật mình ngó lại phía đời anh
là mái tóc em đã không còn xanh
anh là kẻ đã buông hình bắt bóng
tưởng hạnh phúc nằm trong danh vọng
hóa ra nằm gọn lõn trong tay em !”
(Thơ Tặng Người Vợ Khổ Hạnh, HMBS 41-44)
Với một phần hối lỗi, một phần thương yêu, Hà Nguyên Dũng đã vẽ những nét thơ cho vợ mình thật đậm đà. Cái hay ở đây không nằm trong những nhọc nhằn thể xác được trưng ra. Bởi những điều này không riêng chị Hà Nguyên Dũng gánh chịu, mà chia khá đều cho những người mẹ có đời sống kinh tế khó khăn. Cái hay nằm trong cái tình của người thơ, nằm ở những nụ chữ, những chồi hình ảnh khá đẹp, tạo ra được nhiều câu thơ rất óng mượt nhưng vô cùng giản dị: em lo ròm người chuyện mặc ấm, ăn no / anh lại nằm cạy óc kiếm câu thơ/ khi thấy con nghiêng nồi cạy, vét/
Tôi tin chắc chỉ cần một bài thơ này, đủ để cho chị Dũng hạnh phúc. Chị sẽ yêu chồng, yêu con nhiều hơn. Cặp nhẫn chị đã tháo ra, đôi bông chị đã cầm bán, chắc chắn đã lại trở về với chị, ngàn lần lấp lánh hơn, ấm áp hơn, cho dù trên đôi vành tai chị, trên những ngón tay chị, vẫn là những trống không, trơ trịu. Hạnh phúc biết bao nhiêu, khi chị vẫn có một người yêu thương mình, đang nằm gọn trong tay mình. Chị không có cái khổ lo đánh ghen, lo mất chồng, bởi những dáng nhân tình của chàng chỉ nằm trong giọng điệu xem ra còn luyến tiếc mà thôi. Huống chi “chỉ là thơ ấy mà”, nhiều khi “toàn là tưởng tượng !”
Về cái Cái Tôi (của nhà thơ), đây là điểm chủ yếu, có thể xác quyết: trong 100 nhà thơ sẽ có đến 99 ông, nói về mình bằng nhiều hình thức, phương cách khác nhau. Ai không làm vậy có lẽ là kẻ bất thường. Người làm thơ nói, viết về cái tôi của mình không chỉ tìm gặp trong một tập thơ, mà trong khá nhiều bài thơ của họ. Hà Nguyên Dũng cũng không khác. Cái tôi của anh đã có từ Quê Tình, kéo dài qua Hột Muối Bỏ Sông, kéo luôn qua Cửa-Đợi-Sông-Hoài. “Cái tôi” ấy chủ yếu nằm trong tâm sự, trong những thao thức trăn trở về thân phận, về cuộc sống, từ riêng đến chung.
Dựa theo Tâm Ca nằm ở trang 20, của Cửa-Đợi-Sông-Hoài, chúng ta biết, tác giả được ra đời trong một căn hầm đất, dùng để núp đạn đại bác, mà người Pháp thường bắn cầm chừng về ban đêm, vào những vùng lận cận thành phố Đà Nẵng. Hà Nguyên Dũng chua chát: “... quanh làng đại bác nổ trời long / phải đâu đại bác chào ta đến / đại bác gieo buồn khắp núi sông / tiếng súng chín năm trường rát ruột / đạn ghim vô cả giấc mơ hồng...”. Tiếng đại bác quả nhiên không vang lên, để chào mừng sự ra đời, không có cả người đỡ của một cậu bé. Nhưng Hà Nguyên Dũng đã được nghe một thứ âm-thanh-thời- đại, ngay trong thời anh chưa có một ý niệm nào về cuộc đời, cũng là điều quí hiếm. Biết đâu những âm vang lạ lùng kia, đã phần nào góp công giúp anh trở thành một nhà thơ vào mười mấy năm sau.
Hà Nguyên Dũng sớm mồ côi cha. Mẹ bước thêm một bước nữa. Năm tháng vẫn lững thững đi qua. Đứa con của Hà Mật bám theo tháng năm mà trường thành. Chẳng mấy chốc đã năm mươi lăm năm, một cái điểm vịn để anh ngó lại:
“... năm lăm năm đó bao dâu biển
nhìn lại đường xưa vẫn rợn lòng
hiện tại ván cờ đương bí rị
cho dù thí sĩ cũng không mong
giá đời nhân nhượng cho hoàn lại
còn đủ thời gian để gỡ không ?
tuổi đã năm lăm đời chạng vạng
dựa niềm hy vọng ấp cây trông
chớ nhắc làm chi chuyện Lã Vọng
đời còn Mục Công cũng đừng hòng
thì thôi lây lất cho qua bữa
cái nợ van chương trả nổi không ?
sống làm môn khách ăn ráo máng
thác nguyện xin kết cỏ ngậm vòng !”
(Tâm Ca CĐSH 20-23)
Trong suốt cuộc chơi thơ, Hà Nguyên Dũng đã tự tạo cho mình nhiều cơ hội, để đánh giá cuộc sống, để bày tỏ tấm lòng, hoài bảo riêng. Nỗi bi quan trong lòng anh hình như ngày một lan rộng. Con đất còn có lúc hết nơi để mở cõi. Nhưng cái buồn, cái rầu của một người, tự ép mình làm một kẻ thất chí thì vô cùng, không biên giới. Một phương cách biến những mặc cảm thua thiệt thành cao ngạo, mà nhà thơ xứ Quảng Nam này đã chọn, là đối thoại trong độc thoại với những bậc thánh hiền, như đã nói ở phần trên. Trong Cửa-Đợi-Sông-Hoài vẫn còn tiếp diễn những cuộc “kỳ ngộ” ấy:
“ thời của ông kẻ sĩ không nhiều
nhưng vẫn hiếm người được đời trọng dụng
ông phải sống trong nghèo túng
bụng đói mà sôi hay sôi máu kinh bang ?
thời của tôi kẻ sĩ đâu khan
thời nào cũng nhất thân nhì thế
tôi tứ cố vô thân giữa đời dâu bể
lại kém tài khó kiếm bữa cơm rau
tài làm thơ so với tài chăn trâu
thì ông được bát cơm, tơi danh hão
thiên hạ mấy người thực-vô-cầu-bảo ?
thiên hạ bao người quý mến văn chương ?
...
nếu biết làm thơ đời không trọng dụng
tôi đã tìm người học cách nuôi trâu...”
(Tâm Sự Cùng Bá Lý Hề, CĐSH 45-48)
“... Lưu Bang bỏ gái, gái than oán
gái bỏ ta, ta buồn khóc ròng
ta khóc ra thơ, người thưởng ngoạn
đời thường, đời thơ ta long đong”
(Đọc Tần Cung nữ oán Bái Công, nghĩ, CĐSH 59-60)
Khóc ra thơ quả là đại cao thủ. Thơ được người đời thưởng ngoạn mà đời thơ vẫn long đong. Vì sao ? Lý do, theo suy luận, nhà thơ chưa bằng lòng với thơ của mình ? Trọn một đời trọng vọng kẻ sĩ, và khởi từ nhận định cùng thói quen “... gái đẹp đâu bằng cuốn sách hay.../ ta có bao tiền mua sách đọc, chữ cõng ta đi khắp đó đây”, Hà Nguyên Dũng quyết tâm “phò”thơ . Cuối cùng anh đã có quyền hãnh diện:
“danh tướng xưa lấy ngựa bọc thây
ta mong được lấy thơ gói xác
kẻ vì thơ, người vì xã tắc
hy vọng đời khen thưởng công minh...”
(Uống Rượu Cùng Thơ, CĐSH, 27-35)
Cao ngạo thay ! Có lẽ Hà Nguyên Dũng thành công lớn trong loại thơ khẩu khí mới này. Đời đã thưởng gì cho anh ? Đã khen anh ra sao ? Những trang báo in, những trang web đi bài trang trọng. Những tuyển tập (Những Khuôn Mặt Thơ Mới, Thơ Tình Bốn Phương, Tháng Giêng Sài Gòn Anh Làm Thơ Yêu Em, Hai Thập Kỷ Thơ Huế, Thơ Thành Phố HCM, Thơ Miền Trung Thế Kỷ XX, Một Thế Kỷ Thơ Việt...) dành vài ba trang cho thơ... Và sự đón nhận của bạn đọc, và sự tán phục chia xẻ của bè bạn. Còn nữa và quan trọng hơn: sự kính phục của con, sự tin yêu bao che của vợ. Quà tặng của đời chung qui là một cái danh.
Người ta thường nói “Một trời tâm sự” quả rất đúng. Đọc Hà Nguyên Dũng, càng thấy rất rõ điều này. Tôi rất tiếc đã bỏ sót khá nhiều những suy tư, đánh giá về cuộc đời qua mỗi bài thơ anh viết. Bởi vì, thú thật, tôi đọc rất lấy được và viết vội vã, cạn sợt lấy có. Đọc và viết, riêng tôi, chỉ là một cách tập thể dục, trong thời kỳ đã quá giàu năm tháng thế thôi. Dù sao, trước khi ngừng gõ, tôi xin đưa nhận xét riêng đã bỏ thỏng ở đoạn trên: Nhà thơ của chúng ta không quá bi đát trong đời thường. Bởi ngoài một bà vợ chịu thương, chịu khó, anh còn có gia tài là hai đứa con bằng xương bằng thịt, cộng với ba gia-đình-thơ, tuy mỏng mảnh ở tầm vóc, nhưng nội dung đã đủ giúp anh thành danh, lãnh đưọc cái phần thưởng của đời.
Cái ước mong “lấy thơ gói xác” của Hà Nguyên Dũng kể như đã thành. Tôi, một bạn đọc, một người yêu thơ xin kính mừng anh.
08-4-2010